Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Căng cơ thắt lưng: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị

Căng cơ thắt lưng (còn gọi là căng cơ lưng dưới) là tình trạng các cơ ở vùng thắt lưng bị căng hoặc bị tổn thương. Hãy tìm hiểu bệnh căng cơ thắt lưng trong bài sau đây!

Căng cơ thắt lưng: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị

Căng cơ thắt lưng là bệnh gì?

Bác sĩ trị liệu tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội và Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur chia sẻ: Căng cơ thắt lưng, hay còn gọi là căng cơ lưng dưới, là một tình trạng thường gặp gây ra đau đớn và khó chịu ở vùng lưng dưới. Đây là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến các vấn đề về đau lưng, ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới. Bài viết này sẽ giải thích chi tiết về căng cơ thắt lưng, bao gồm nguyên nhân, triệu chứng, cách chẩn đoán và các phương pháp điều trị hiệu quả.

Nguyên nhân của căng cơ thắt lưng

Căng cơ thắt lưng thường xảy ra khi các cơ hoặc dây chằng ở lưng dưới bị tổn thương. Nguyên nhân gây căng cơ có thể rất đa dạng, bao gồm:

  1. Chấn thương hoặc vận động sai cách: Các hoạt động như nâng vác vật nặng, xoay người đột ngột hoặc thực hiện các động tác thể thao không đúng kỹ thuật có thể dẫn đến căng cơ. Ví dụ, người chơi golf hoặc bóng rổ thường gặp phải vấn đề này do các động tác vặn mình mạnh mẽ.
  2. Công việc yêu cầu ngồi hoặc đứng lâu: Những người làm việc văn phòng, tài xế hoặc công nhân đứng lâu cũng có nguy cơ cao bị căng cơ thắt lưng. Tư thế không đúng trong thời gian dài có thể gây áp lực lên cột sống và cơ lưng dưới, dẫn đến căng cơ.
  3. Tư thế ngủ không đúng: Ngủ ở tư thế không phù hợp hoặc sử dụng gối không hỗ trợ tốt có thể gây căng cơ thắt lưng. Ví dụ, ngủ sấp hoặc không có gối hỗ trợ đúng cách cho vùng cổ và lưng có thể gây căng cơ.
  4. Thiếu luyện tập thể dục: Cơ lưng yếu do ít vận động cũng dễ bị căng khi phải chịu áp lực. Những người ít hoạt động thể chất thường có cơ lưng và cơ bụng yếu, không thể hỗ trợ cột sống một cách hiệu quả.

Triệu chứng của căng cơ thắt lưng

Căng cơ thắt lưng có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tổn thương. Các triệu chứng phổ biến bao gồm:

  • Đau nhói hoặc đau âm ỉ ở vùng lưng dưới: Cơn đau có thể xuất hiện đột ngột sau khi nâng vật nặng hoặc thực hiện một động tác sai cách.
  • Đau tăng lên khi cử động: Đặc biệt là khi uốn hoặc xoay người. Điều này khiến người bệnh gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày.
  • Cảm giác căng cứng hoặc yếu ở vùng lưng dưới: Người bệnh có thể cảm thấy lưng dưới bị căng cứng, đặc biệt là vào buổi sáng sau khi thức dậy.
  • Có thể có tình trạng sưng hoặc co cơ: Trong một số trường hợp, vùng lưng dưới có thể bị sưng hoặc cơ lưng có thể co lại do căng thẳng.

Chẩn đoán căng cơ thắt lưng

Việc chẩn đoán căng cơ thắt lưng thường bắt đầu bằng việc thăm khám lâm sàng và hỏi bệnh sử. Bác sĩ sẽ kiểm tra vùng lưng dưới để xác định vị trí đau và mức độ nghiêm trọng của căng cơ. Đôi khi, các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như X-quang, MRI hoặc CT scan có thể được sử dụng để loại trừ các nguyên nhân khác của đau lưng, chẳng hạn như thoát vị đĩa đệm hoặc tổn thương cột sống.

Điều trị căng cơ thắt lưng

Dược sĩ Cao đẳng Dược Hà Nội  – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur chia sẻ: Việc điều trị căng cơ thắt lưng thường kết hợp giữa các phương pháp điều trị không dùng thuốc và dùng thuốc. Dưới đây là một số phương pháp điều trị phổ biến:

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng 

Điều trị không dùng thuốc

  1. Nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong điều trị căng cơ thắt lưng. Tránh các hoạt động gây căng cơ thêm, nhưng cũng không nên nằm bất động quá lâu. Di chuyển nhẹ nhàng và duy trì một số hoạt động hàng ngày có thể giúp tăng cường lưu thông máu và giảm căng cơ.
  2. Chườm đá hoặc nhiệt: Chườm đá trong 48 giờ đầu để giảm sưng và viêm, sau đó có thể dùng nhiệt để làm giãn cơ và giảm đau. Việc chườm đá nên thực hiện trong 15-20 phút mỗi lần, nhiều lần trong ngày. Sau giai đoạn chườm đá, chườm nhiệt cũng có thể được thực hiện với thời gian và tần suất tương tự.
  3. Vật lý trị liệu: Tập các bài tập nhẹ nhàng để tăng cường sức mạnh cơ lưng và cải thiện linh hoạt. Vật lý trị liệu có thể bao gồm các bài tập kéo giãn, tăng cường cơ bắp và cải thiện tư thế. Các nhà vật lý trị liệu có thể hướng dẫn các bài tập cụ thể và cách thực hiện chúng một cách an toàn và hiệu quả.
  4. Massage: Giúp giảm căng cơ và tăng tuần hoàn máu. Massage có thể giúp giảm đau và làm dịu cơ bắp căng thẳng. Tuy nhiên, massage nên được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm để tránh làm tổn thương thêm vùng lưng dưới.

Điều trị bằng thuốc

  1. Thuốc giảm đau không kê đơn (OTC):
  • Acetaminophen (Paracetamol): Giúp giảm đau nhưng không có tác dụng chống viêm.
  • Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) như ibuprofen hoặc naproxen: Giúp giảm đau và viêm.
  1. Thuốc giảm đau kê đơn: Trong các trường hợp đau nặng, bác sĩ có thể kê đơn các loại thuốc giảm đau mạnh hơn như opioid. Tuy nhiên, cần sử dụng dưới sự giám sát của bác sĩ do nguy cơ gây nghiện và tác dụng phụ nghiêm trọng.
  2. Thuốc giãn cơ: Được sử dụng để giảm co thắt cơ và giảm đau. Các loại thuốc giãn cơ thường được kê đơn bao gồm cyclobenzaprine và baclofen.
  3. Thuốc chống viêm kê đơn: Celecoxib (Celebrex) là một loại NSAID được kê đơn với tác dụng giảm viêm và đau.
  4. Thuốc chống trầm cảm: Amitriptyline và duloxetine có thể được sử dụng để điều trị đau mãn tính, bao gồm đau lưng.
  5. Thuốc chống co giật: Gabapentin và pregabalin thường được sử dụng để điều trị đau thần kinh, có thể có ích trong trường hợp đau lưng liên quan đến thoát vị đĩa đệm hoặc chèn ép dây thần kinh.

Phòng ngừa căng cơ thắt lưng

Phòng ngừa căng cơ thắt lưng đòi hỏi một lối sống lành mạnh và các biện pháp cụ thể để giảm nguy cơ chấn thương. Dưới đây là một số gợi ý:

  1. Duy trì tư thế đúng: Luôn duy trì tư thế đúng khi ngồi, đứng, và nằm. Sử dụng ghế có lưng tựa tốt, điều chỉnh độ cao bàn làm việc phù hợp và chọn nệm hỗ trợ tốt cho lưng.
  2. Tập thể dục đều đặn: Thực hiện các bài tập thể dục giúp tăng cường cơ lưng và cơ bụng. Các bài tập như yoga, Pilates, và bơi lội có thể giúp duy trì sự linh hoạt và sức mạnh của cơ bắp.
  3. Tránh nâng vật nặng sai cách: Khi nâng vật nặng, hãy sử dụng cơ chân thay vì cơ lưng để giảm áp lực lên lưng dưới. Uốn cong đầu gối và giữ vật gần cơ thể khi nâng.
  4. Duy trì cân nặng hợp lý: Thừa cân có thể gây áp lực lên cột sống và tăng nguy cơ căng cơ thắt lưng. Duy trì cân nặng hợp lý thông qua chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn.

Căng cơ thắt lưng là một tình trạng phổ biến trong bệnh lý cơ xương khớp có thể gây ra đau và khó chịu ở vùng lưng dưới. Hiểu rõ nguyên nhân, triệu chứng, và các phương pháp điều trị có thể giúp giảm đau và ngăn ngừa tình trạng này tái phát. Việc duy trì một lối sống lành mạnh, tư thế đúng và tập thể dục đều đặn là những biện pháp quan trọng để bảo vệ sức khỏe lưng và cột sống. Nếu triệu chứng căng cơ thắt lưng không cải thiện sau một thời gian hoặc trở nên nghiêm trọng hơn, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn và điều trị kịp thời.

Thông tin chia sẻ chỉ mang tính chất tham khảo, người bệnh không áp dụng khi chưa được sự đồng ý của bác sĩ hoặc chuyên gia y tế!

Nguồn:  benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Bệnh Ebola là gì ?

Bản thân virus Ebola được phát hiện lần đầu vào năm 1976, nhưng đây chỉ là một thành viên trong họ virus gây nên hội chứng tương tự nhau gọi là sốt xuất huyết virus.

Căn bệnh gây nên bởi virus này rất đột ngột và đáng sợ. Khởi đầu là triệu chứng như bệnh cúm – sốt, đau họng, rất mệt mỏi và đau cơ. Trong một vài ngày phát triển thành buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy.

Trong khi biểu hiện ra những triệu chứng bên ngoài như trên, thì virus lại tấn công nội tạng bên trong, đặc biệt là gan và thận. Khi các nội tạng bị tổn thương, bệnh nhân bắt đầu xuất huyết, cuối cùng chết vì mất máu và nước. Tới nay đã có 2.200 trường hợp được báo cáo, khoảng 1.500 người nhiễm đã tử vong.

Trong khi virus Ebola chủ yếu được phát hiện tại Trung Phi (đợt dịch hiện nay nằm ở phía Tây đợt dịch trước), những con virus gây nên hội chứng sốt xuất huyết virus khác lại phân bố rộng rãi hơn – sốt Lassa (Tây Phi), hantaviru (Đông Á), Junin (Argentina), Crimean – Congo (chủ yếu ở Trung Á và Đông u). Virus Dengue, thường được phát hiện chủ yếu ở vùng nhiệt đới (đặc biệt là Châu Á), có thể nhưng hiếm gặp, gây ra hội chứng tương tự.

Có năm chủng Ebola và chúng phân biệt nhau ở cơ chế lây bệnh và làm tử vong. Những vụ dịch bệnh đáng chú ý nhất có liên quan đến chủng Sudan và Zaire; con thứ hai có liên quan đến vụ dịch bệnh hiện nay.

Ebola được cho là bắt nguồn từ dơi ăn quả và các trường hợp đầu tiên tại người có nguyên nhân từ tiếp xúc với động vật bị lây nhiễm, bao gồm tinh tinh, gozila và khỉ. Nhưng vụ dịch hiện nay xảy ra do lây từ người sang người.

Bệnh Ebola lây lan như thế nào?

Một tin tốt, sự lây lan của virus nếu có xảy ra thì có thể kiểm soát được, và không dễ dàng lây nhiễm như bạn nghĩ khi xem các bộ phim về dịch do virus.

Không giống như SARS (Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng), vốn lây lan nhanh chóng do tiếp xuc với các giọt chất lỏng nhỏ và tác nhân gây bệnh từ môi trường, và khó kiểm soát thậm chí dù ở các nước phát triển như Canada và Singapore. Bệnh Ebola cần có yêu cầu là tiếp xúc với chất dịch của người bị nhiễm. Điều này đồng nghĩa với Ebola chỉ thường lây lan khi có tiếp xúc gần đối với người bị nhiễm – chủ yếu là thành viên trong gia đình, nhân viên y tế và những người liên quan đến mai táng bệnh nhân.

Tổ chức Y tế Thế giới chỉ khuyến cáo “biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn” để ngăn ngừa mọi người tiếp xúc gần với chất tiết người bị nhiễm. Biện pháp này bao gồm cả đeo găng tay, mặc áo phòng hộ, đeo mặt nạ và đồ bảo vệ mắt, đảm bảo khử trùng tay và thiết lập hệ thống để quản lý công tác đánh giá, chăm sóc bệnh nhân và dọn dẹp, xử lý chất thải.

Người bị sốt xuất huyết virus chảy máu và nôn, và những chất dịch này có khả năng lây nhiễm. Công tác huấn luyện cho những nhân viên y tế, đặc biệt nhân viên ở các vùng chưa từng biết đến căn bệnh Ebola trước đó, dường như khó có thể giúp họ chấp nhận và chăm sóc cho bệnh nhân bị nhiễm, hay giúp họ tuân thủ được những yêu cầu kiểm soát nghiêm ngặt giúp ngăn chặn lây lan.

Kiềm chế dịch bệnh Ebola bùng phát

Và đây vẫn còn là bài toán hóc búa hơn cả; Dịch Ebola có xu hướng bùng phát ở những nơi có cơ sơ hạ tầng y tế bị thiếu thốn trầm trọng.

Sự thiếu thốn trên làm ảnh hưởng đến mọi nỗ lực nhằm kiểm sát dịch bệnh. Guinea- nơi đang xảy ra dịch bệnh, cũng được báo cáo là đang vật lộn với bệnh sởi, tả và viêm màng não.

Nhưng không hẳn là thiếu thốn mọi thứ. Các tổ chức cứu trợ, tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới, đang hỗ trợ các đội ngũ và cơ sở vật chất qua đường hàng không để giúp kiểm soát vụ dịch Ebola. Những tổ chức này đã có kinh nghiệm tại khu vực này thông qua việc tham gia vào các tình trạng khẩn cấp trước đó.

Tổ chức nhấn mạnh rằng, dịch bệnh này đặt ra những khó khăn đặc biệt, chẳng hạn như diễn ra ở nhiều nơi trong khu vực, đồng thời cũng cách xa nhau, do đó gây trở ngại cho những nỗ lực để kiểm soát dịch bệnh. Và vì thời kỳ ủ bệnh của virus có thể kéo dài đến ba tuần, chúng ta sẽ không biết những biện pháp kiểm soát đang được áp dụng trong thời gian ngắn sẽ đem lại kết quả ra sao.

Hãy cùng hy vọng rằng các nỗ lực của quốc tế và địa phương hiện nay để giúp kiểm soát sự lây lan của bệnh Ebola sẽ chặn đứng con số người bị nhiễm bệnh đang gia tăng.

Bệnh do vi rút Ebola

Bệnh do vi rút Ebola (EVD) hay sốt xuất huyết Ebola (EHF) là bệnh do vi rút Ebola gây ra ở người. Các triệu chứng thường khởi phát sau khi bị nhiễm vi rút 2 ngày đến 3 tuần, với sốt, đau họng, đau bắp cơ, và nhức đầu. Sau đó thường xuất hiện các triệu chứng buồn nôn, nôn ói, và tiêu chảy, kèm theo chức năng gan và thận cũng bị suy giảm. Ở giai đoạn này, một số người bắt đầu có các triệu chứng xuất huyết.

Con người có thể nhiễm vi rút Ebola do tiếp xúc với máu hoặc chất dịch cơ thể của động vật bị nhiễm (thường là khỉ hoặc loài dơi ăn trái). Sự lây truyền qua không khí trong môi trường tự nhiên vẫn chưa được chứng minh. Loài dơi ăn trái được cho là mang truyền vi rút Ebola mà không hề bị bệnh. Một khi con người bị nhiễm bệnh, thì bệnh cũng có thể lây truyền từ người này sang người khác. Nam giới sống sót sau khi nhiễm bệnh Ebola có thể truyền bệnh qua tinh dịch trong gần 2 tháng. Để chẩn đoán bệnh, trước tiên cần phân biệt loại trừ các bệnh khác có triệu chứng tương tự chẳng hạn sốt rét, dịch tả và các bệnh sốt xuất huyết do vi rút khác. Để xác định bệnh, mẫu máu được xét nghiệm để tìm kháng thể vi rút, ARN của vi rút, hoặc chính con vi rút Ebola.

Phòng bệnh bao gồm làm giảm sự lây lan bệnh từ heo và khỉ bị nhiễm sang con người. Việc này được thực hiện bằng cách kiểm tra bệnh các loài động vật này và bằng cách giết chết và tiêu hủy đúng cách xác động vật chết nếu phát hiện chúng bị bệnh. Thịt được nấu chín kỹ và mặc quần áo bảo hộ khi xử lý thịt cũng giúp phòng bệnh, cũng như mặc quần áo bảo hộ và rửa tay khi ở gần người mắc bệnh để phòng bệnh. Các mẫu mô và chất dịch cơ thể của người mắc bệnh cần được xử lý đặc biệt thận trọng.

Không có phác đồ điều trị đặc hiệu; các nỗ lực nhằm giúp người bệnh bao gồm hoặc là cho điều trị mất nước bằng đường uống (nước uống hơi ngọt hơi mặn) hoặc là cho dịch truyền bằng đường tĩnh mạch. Bệnh có tỉ lệ tử vong cao: thường từ 50% đến 90% số người nhiễm vi rút Ebola bị tử vong. [3] EVD được phát hiện đầu tiên ở Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo. Bệnh thường bộc phát thành dịch ở những vùng nhiệt đới của châu Phi cận Sahara. Từ 1976 (khi lần đầu được phát hiện) cho đến 2013, chưa tới 1000 người bị nhiễm bệnh mỗi năm. Dịch bệnh lớn nhất cho đến nay là dịch Ebola Tây Phi 2014 đang hoành hành ở Guinea, Sierra Leone, Liberia và có thể Nigeria. Tính tới ngày 3 tháng 10 năm 2014, 7.497 trường hợp bị nghi ngờ mắc bệnh trong số đó đã có 3.439 người đã chết. Hiện người ta đang nỗ lực chế tạo vắc xin; tuy nhiên, vẫn chưa có vắc xin nào.

Chu kỳ cuộc sống của Ebola virus

Bệnh virus Ebola bị gây ra bởi bốn trong nhóm năm loài virus Ebola, họ Filoviridae, bộ Mononegavirales. Những loại virus đó là Bundibugyo (BDBV), Ebola (EBOV), Sudan (SUDV), và virus rừng Taï (TAFV, tên trước đây và tên thường gọi cũng là virus Ebola Bờ Biển Ngà (CIEBOV)). Loại thứ năm, Reston virus (RESTV), được cho là không gây ra bệnh trên con người. Khi bệnh bộc phát ra, những người có nguy cơ mắc bệnh nhất là những người chăm sóc bệnh nhân, hoặc có tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân.

Các triệu chứng của bệnh Ebola

Bệnh này thường bắt đầu với dấu hiệu và các triệu chứng giống bệnh cúm như sốt, đau đầu, mệt mỏi, đau cơ, khớp và cơ bụng. Nôn mửa, tiêu chảy và chán ăn cũng là các triệu chứng phổ biến.

EVD / EHF về mặt lâm sàng không thể phân biệt được với bệnh virus Marburg (MVD), và nó cũng có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với nhiều bệnh phổ biến khác ở vùng xích đạo châu Phi, chẳng hạn như các virus sốt xuất huyết, sốt rét falciparum, sốt thương hàn, bệnh vi khuẩn Shigella, bệnh rickettsial, bệnh tả, nhiễm trùng huyết hoặc EHEC ruột Gram âm. Các nghiên cứu chi tiết nhất về tần suất, bắt đầu thời gian, và các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng EVD đã được thực hiện trong sự bùng phát bệnh năm 1995 tại Kikwit, Zaire (EBOV) và đợt bùng phát bệnh giai đoạn 2007-2008 ở Bundibugyo, Uganda (BDBV). thời gian ủ bệnh trung bình của dịch EVD do EBOV là 12,7 ngày (độ lệch chuẩn = 4.3 ngày), nhưng có thể dài đến 25 ngày. giai đoạn đầu giống như cúm đặc trưng bởi sốt, khó chịu nói chung với ớn lạnh, đau khớp,đau cơ và đau ngực. Buồn nôn kèm theo đau bụng, chán ăn, tiêu chảy và nôn mửa,viêm họng với đau họng, ho, khó thở, và nấc cụt.

Hệ thống thần kinh trung ương bị ảnh hưởng được đánh giá bởi sự phát triển của đau đầu nghiêm trọng, tình trạng kích động, lú lẫn, mệt mỏi, trầm cảm, co giật, và đôi khi hôn mê. Hệ thống tuần hoàn cũng thường xuyên tham gia, với các dấu hiệu nổi bật nhất là phù nề và viêm kết mạc. Các triệu chứng xuất huyết là không thường xuyên (ít hơn 10% trường hợp cho hầu hết các type huyết thanh), (lý do tại sao bệnh sốt xuất huyết Ebola (EHF) là một cái tên nhầm lẫn) và bao gồm nôn ra máu, ho ra máu, phân đen, và chảy máu từ màng nhầy (gastroinestinal đường, mũi, âm đạo và nướu).

Biểu hiện trên da có thể bao gồm: phát ban đốm diện rộng, đốm xuất huyết, xuất huyết ban, các vết bầm máu, và máu tụ (đặc biệt là xung quanh các trang điểm kim tiêm). Tiến triển các triệu chứng xuất huyết là dấu hiệu của một tiên lượng tiêu cực. Tuy nhiên, trái với niềm tin phổ biến, xuất huyết không dẫn đến hypovolemia và không phải là nguyên nhân cái chết (mất máu tổng số thấp, ngoại trừ trong quá trình lao động). Thay vào đó, cái chết xảy ra do hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (MODS) do tái phân phối chất lỏng, hạ huyết áp, phổ biến, đông máu nội mạch, và hoại tử mô trung tâm. Hiện nay, bệnh Sốt xuất huyết do virus Ebola chưa có vaccine dự phòng.

Phòng tránh bệnh Ebola

Virus Ebola lây sang người thông qua tiếp xúc với máu, chất tiết, bộ phận cơ thể hoặc dịch thể khác của người, động vật bị nhiễm bệnh. Để phòng bệnh, cần thực hiện vệ sinh cá nhân (rửa tay bằng xà phòng, chất sát khuẩn,…), tránh tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh; không cầm, nắm các vật có thể đã tiếp xúc với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh trước đó.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Bệnh lý phình đĩa đệm nguy hiểm như thế nào?

Bệnh lý phình đĩa đệm (hoặc thoát vị đĩa đệm) là tình trạng khi đĩa đệm nằm giữa các đốt sống bị tổn thương và phần nhân nhầy bên trong đĩa đệm bị đẩy ra ngoài.

Bệnh lý phình đĩa đệm nguy hiểm như thế nào?

Triệu chứng chính của phình đĩa đệm

Bệnh lý cơ xương khớp phình đĩa đệm có thể gây ra áp lực lên các dây thần kinh gần đó, dẫn đến các triệu chứng khác nhau. Các triệu chứng chính của phình đĩa đệm bao gồm:

  1. Đau lưng: Đây là triệu chứng phổ biến nhất và có thể xảy ra ở vùng lưng dưới hoặc lưng giữa.
  2. Đau lan xuống chân: Nếu phình đĩa đệm xảy ra ở vùng lưng dưới (cột sống thắt lưng), đau có thể lan xuống chân, gót chân hoặc đùi, thường được gọi là đau thần kinh tọa.
  3. Tê và ngứa ran: Cảm giác tê và ngứa ran có thể xuất hiện ở chân, tay, hoặc các vùng khác tùy thuộc vào vị trí của phình đĩa đệm.
  4. Yếu cơ: Có thể cảm thấy yếu ở chân hoặc tay nếu đĩa đệm bị phình chèn ép dây thần kinh liên quan đến cơ bắp đó.
  5. Khó khăn trong việc di chuyển: Cảm giác đau và yếu có thể khiến việc đi lại, cúi xuống, hoặc đứng lâu trở nên khó khăn.
  6. Thay đổi cảm giác: Có thể cảm thấy cảm giác bất thường như giảm cảm giác hoặc cảm giác như bị kim châm.
  7. Đau cổ: Nếu phình đĩa đệm xảy ra ở vùng cổ (cột sống cổ), bạn có thể cảm thấy đau cổ, đau lan xuống vai, cánh tay, hoặc thậm chí đau đầu.

Dược sĩ Cao đẳng Dược TP.HCM cho rằng: Nếu bạn gặp phải các triệu chứng này, đặc biệt là nếu chúng nghiêm trọng hoặc không cải thiện sau khi nghỉ ngơi hoặc điều trị cơ bản. Việc điều trị có thể bao gồm thuốc giảm đau, vật lý trị liệu, hoặc trong trường hợp nghiêm trọng hơn, phẫu thuật để giảm áp lực lên dây thần kinh.

  1. Lão hóa: Khi tuổi tác tăng lên, đĩa đệm mất dần tính đàn hồi và độ bền. Đĩa đệm có thể bị khô và giảm khả năng hấp thụ sốc, dẫn đến nguy cơ cao hơn của việc bị phình hoặc rách.
  2. Chấn thương hoặc căng thẳng: Chấn thương nặng hoặc căng thẳng kéo dài trên cột sống có thể làm tổn thương đĩa đệm. Các hoạt động nặng nhọc, cúi xuống hoặc xoay người sai cách đều có thể gây ra tình trạng này.
  3. Tư thế và thói quen xấu: Ngồi hoặc đứng lâu trong tư thế không đúng, đặc biệt là khi cúi người hoặc nâng vật nặng không đúng cách, có thể gây áp lực lên cột sống và dẫn đến phình đĩa đệm.
  4. Thừa cân: Trọng lượng cơ thể dư thừa có thể tạo áp lực thêm lên cột sống, làm tăng nguy cơ bị phình đĩa đệm.
  5. Chế độ ăn uống không lành mạnh: Chế độ ăn thiếu dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cột sống và đĩa đệm. Thiếu vitamin và khoáng chất cần thiết có thể làm suy giảm cấu trúc và chức năng của đĩa đệm.
  6. Yếu cơ và thiếu hoạt động thể chất: Cơ lưng yếu hoặc không được rèn luyện đủ có thể dẫn đến sự hỗ trợ kém cho cột sống, gây ra áp lực không đồng đều lên đĩa đệm và dễ dẫn đến phình đĩa đệm.
  7. Nâng vật nặng sai cách: Việc nâng hoặc kéo vật nặng mà không sử dụng kỹ thuật đúng có thể tạo áp lực không đều lên đĩa đệm, dẫn đến tình trạng phình.

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng 

Điều trị phình đĩa đệm

Bác sỹ tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội và TP.HCM cho biết: Điều trị phình đĩa đệm có thể bao gồm nhiều phương pháp tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng và các triệu chứng mà bạn gặp phải.

  1. Điều trị bảo tồn
  • Thuốc giảm đau: Các thuốc như acetaminophen (Tylenol) hoặc thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) như ibuprofen (Advil) có thể giúp giảm đau và viêm.
  • Thuốc giãn cơ: Được sử dụng khi có co thắt cơ kèm theo đau.
  • Thuốc giảm đau thần kinh: Các thuốc như gabapentin hoặc pregabalin có thể giúp kiểm soát cơn đau thần kinh.
  • Vật lý trị liệu: Một chương trình vật lý trị liệu có thể bao gồm các bài tập nhằm cải thiện sức mạnh cơ bắp, linh hoạt và tư thế. Vật lý trị liệu cũng có thể giúp giảm áp lực lên cột sống và cải thiện khả năng vận động.
  • Châm cứu: Một số nghiên cứu cho thấy châm cứu có thể giúp giảm đau và cải thiện chức năng.
  • Tập thể dục và điều chỉnh lối sống: Các bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, bơi lội hoặc yoga có thể giúp giảm đau và cải thiện sức mạnh cơ bắp. Điều chỉnh lối sống bao gồm duy trì trọng lượng cơ thể hợp lý và tránh các hoạt động làm tăng áp lực lên cột sống.
  • Thay đổi thói quen sinh hoạt: Thay đổi tư thế ngồi và đứng, sử dụng thiết bị hỗ trợ lưng khi cần thiết, và tránh nâng vật nặng hoặc các động tác xoay người mạnh mẽ.
  1. Điều trị can thiệp
  • Tiêm thuốc vào cột sống: Tiêm corticosteroid vào không gian quanh đĩa đệm có thể giúp giảm viêm và đau. Đây là một biện pháp tạm thời và thường được sử dụng khi các phương pháp bảo tồn không hiệu quả.
  • Tiêm thuốc giảm đau thần kinh: Được sử dụng để giảm cơn đau do dây thần kinh bị chèn ép.
  1. Phòng ngừa
  • Duy trì cân nặng hợp lý: Giảm thiểu áp lực lên cột sống bằng cách giữ trọng lượng cơ thể trong khoảng bình thường.
  • Tập thể dục thường xuyên: Tăng cường cơ lưng và cải thiện sự linh hoạt để hỗ trợ cột sống.

Chia sẻ và biên tập bởi Cử nhân Y khoa Trần Hương Ly – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur !

Cập nhật tại https://benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Con Đường Lây Lan Của Bệnh Ebola

Việc chưa khống chế được bệnh dịch Ebola khiến không ít ngưởi hoang mang. Bệnh Ebola lây qua đường nào để phòng tránh được rất nhiều người quan tâm. Bài viết sau sẽ cho bạn hiểu bệnh Ebola lây truyền qua đường nào.

Trong thiên nhiên, virus Ebola tồn tại trong một loài dơi chuyên ăn quả ở châu Phi. Tuy nhiên, chỉ có người và động vật linh trưởng (khỉ, khỉ đột, đười ươi, tinh tinh…) mới là vật chủ để virus này gây bệnh. Virus này sẽ hiện diện trong máu và các dịch tiết (phân, nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, tinh dịch…) của loài động vật linh trưởng này.

Con người chúng ta bị lây khi tiếp xúc với những con vật này bị chết mà không có biện pháp bảo hộ thích hợp. Ngoài ra, người ta cũng ghi nhận một số người bị lây nhiễm do tiếp xúc hoặc ăn uống thịt các thú rừng bị bệnh hoặc chết như: nhím, linh dương, mặc dù những loài thú này không phải là vật chủ của virus Ebola.

– Khi một người bị nhiễm virus Ebola, lúc đó virus có thể lây truyền trực tiếp từ người sang người vì máu và các dịch tiết (phân, nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, tinh dịch, sữa mẹ…) của người bị nhiễm bệnh cũng chứa virus Ebola.

Người ta ghi nhận sau thời kỳ ủ bệnh từ 2-21 ngày tùy người thì bệnh nhân bắt đầu có triệu chứng, lúc đó bệnh nhân có thể lây lan virus từ người sang người. Tuy nhiên, việc lây truyền từ người sang người xảy ra qua những con đường sau:

+ Da hoặc niêm mạc miệng, má, mũi, đường tiêu hóa, đường sinh dục bị trầy xước tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc dịch tiết của bệnh nhân.

+ Da hoặc niêm mạc miệng, má, mũi, đường tiêu hóa, đường sinh dục bị trầy xước tiếp xúc trực tiếp với môi trường xung quanh đã bị nhiễm bẩn bởi dịch tiết của bệnh nhân như quần áo, chăn màn, drap trải giường, kim tiêm…

+ Nghi lễ chôn cất hoặc tẩm liệm người chết vì bệnh Ebola mà có tiếp xúc trực tiếp với thi thể cũng có thể làm lây bệnh từ người sang người.

Cách phòng chống việc lây nhiễm Ebola: vì bệnh chưa có vắc xin nên chúng ta có thể áp dụng những cách phòng chống sau:

– Đối với những người đến hoặc quá cảnh từ vùng có dịch (các nước Tây Phi) trong vòng 3 tuần lễ cần được lưu ý đến khả năng mắc bệnh Ebola khi có những triệu chứng ban đầu: sốt, ho thông thường và nên được đưa đến cơ sở y tế để được chẩn đoán, chăm sóc và cách ly thích hợp để tránh lây lan.

– Đối với những trường hợp có người thân bị sốt nghi ngờ do Ebola, chúng ta nên rửa tay bằng xà phòng ngay sau khi chạm vào bệnh nhân hoặc đồ đạc xung quanh họ.

– Không nên ăn thịt rừng.

– Nên nấu chín thật kỹ thức ăn có nguồn gốc từ động vật.

– Tình dục an toàn: sử dụng bao cao su…

– Những bệnh nhân đã chết vì Ebola nên được xử lý cẩn thận và sử dụng găng tay, khẩu trang, nón bảo hộ và nên chôn cất ngay lập tức, không để kéo dài.

Tình hình nhiễm Ebola tại Việt Nam

Trong tình hình thực tế ở Việt Nam, hiện tại chưa xuất hiện Ebola nhưng chúng ta cần áp dụng đồng bộ nhiều phương pháp:

– Kiểm dịch từ khâu nhập cảnh, nhất là những người đến hoặc quá cảnh từ những vùng có dịch.

– Thận trọng khi tiếp xúc với những người thân, bạn bè trong 3 tuần gần đây từng đến vùng có dịch (Tây Phi).

– Ăn chín, uống sôi, rửa sạch

– Rửa tay và vệ sinh môi trường với xà phòng

– Không quan hệ tình dục bừa bãi mà không có biện pháp bảo vệ

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Biểu hiện của bệnh ung thư xương: Những dấu hiệu quan trọng cần biết

Ung thư xương là một loại ung thư hiếm gặp nhưng rất nguy hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc và chức năng của hệ xương. Các triệu chứng của bệnh ung thư xương có thể thay đổi tùy theo loại ung thư, vị trí của khối u, và mức độ tiến triển của bệnh.  

Biểu hiện của bệnh ung thư xương: Những dấu hiệu quan trọng cần biết

1. Đau xương

Bác sĩ các trường Cao đẳng Dược Hà Nội cho biết: Triệu chứng chính và phổ biến nhất của ung thư xương là đau xương. Đau thường bắt đầu nhẹ, có thể cảm nhận như một cơn đau âm ỉ hoặc đau nhói. Cơn đau có xu hướng trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm hoặc khi vận động. Ban đầu, cơn đau có thể không liên tục nhưng sẽ trở nên dai dẳng và nặng hơn theo thời gian. Đối với trẻ em và thanh thiếu niên, đau xương có thể dễ nhầm lẫn với các vấn đề phát triển như đau xương do tăng trưởng.

2. Sưng nề vùng xương bị ảnh hưởng

Sưng tấy hoặc xuất hiện khối u ở vùng xương bị ảnh hưởng cũng là một triệu chứng thường gặp. Khi khối u phát triển, vùng xung quanh xương có thể bị sưng, đỏ, và ấm hơn so với các khu vực khác. Trong một số trường hợp, khối u có thể sờ thấy dưới da, đặc biệt là ở những khu vực như xương chân, cánh tay, hoặc vùng xương chậu.

3. Gãy xương không rõ nguyên nhân

Xương yếu đi và dễ gãy là một biểu hiện quan trọng của ung thư xương. Gãy xương có thể xảy ra ngay cả khi không có tác động mạnh hoặc chấn thương lớn. Điều này xảy ra do khối u làm suy yếu cấu trúc của xương, khiến xương trở nên mỏng manh và dễ bị tổn thương. Khi xương bị gãy, cơn đau sẽ trở nên dữ dội và có thể cần phẫu thuật hoặc các biện pháp điều trị đặc biệt.

4. Giảm khả năng vận động

Giảm khả năng vận động hoặc khó khăn trong việc di chuyển là một triệu chứng khác của bệnh cơ xương khớp ung thư xương. Khi khối u lớn lên và chèn ép các mô xung quanh, bệnh nhân có thể cảm thấy khó khăn khi cử động, đặc biệt là khi khối u xuất hiện ở các khớp hoặc vùng gần khớp. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng khớp bị cứng, mất linh hoạt, hoặc thậm chí bị biến dạng.

5. Sụt cân và mệt mỏi

Sụt cân không rõ nguyên nhân và mệt mỏi là những triệu chứng thường thấy ở bệnh nhân ung thư, bao gồm cả ung thư xương. Cơ thể của bệnh nhân có thể tiêu hao nhiều năng lượng hơn để chống lại sự phát triển của khối u, dẫn đến tình trạng sụt cân nhanh chóng. Mệt mỏi có thể làm giảm chất lượng cuộc sống, khiến bệnh nhân cảm thấy yếu ớt, mất sức, và không có động lực để thực hiện các hoạt động hàng ngày.

Biểu hiện của bệnh ung thư xương

6. Triệu chứng khác

Một số bệnh nhân ung thư xương có thể gặp phải các triệu chứng như sốt, đổ mồ hôi đêm, và thiếu máu. Thiếu máu xảy ra khi cơ thể không sản xuất đủ hồng cầu, dẫn đến triệu chứng mệt mỏi và xanh xao. Sốt và đổ mồ hôi đêm có thể là dấu hiệu của tình trạng nhiễm trùng hoặc viêm nhiễm liên quan đến sự phát triển của khối u.

7. Di căn và các biểu hiện khác

Trong giai đoạn tiến triển, ung thư xương có thể di căn sang các bộ phận khác của cơ thể như phổi, gan, hoặc các cơ quan khác. Khi đó, bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí di căn. Ví dụ, nếu ung thư di căn đến phổi, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc thở, ho, hoặc cảm thấy đau ngực. Nếu ung thư di căn đến não, có thể gây ra các triệu chứng thần kinh như đau đầu, buồn nôn, hoặc thay đổi hành vi.

8. Các yếu tố nguy cơ

Dược sĩ Cao đẳng Dược TP.HCM cho hay: Mặc dù các biểu hiện trên có thể giúp nhận diện ung thư xương, nhưng cũng cần lưu ý rằng các yếu tố nguy cơ như di truyền, tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư, và tiếp xúc với tia xạ cũng góp phần quan trọng trong việc xác định nguy cơ mắc bệnh. Những người có tiền sử bệnh lý xương hoặc đã từng điều trị bằng xạ trị cũng có nguy cơ cao hơn.

Ung thư xương là một căn bệnh nghiêm trọng với nhiều biểu hiện đa dạng. Việc nhận biết sớm các triệu chứng của bệnh có ý nghĩa rất lớn trong việc chẩn đoán và điều trị. Nếu bạn hoặc người thân có bất kỳ biểu hiện nào kể trên, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ ngay lập tức để được tư vấn và thăm khám. Điều này không chỉ giúp phát hiện sớm bệnh mà còn tăng cơ hội điều trị thành công và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Nguồn: benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Bệnh Quai Bị – Phòng Tránh Và Điều Trị

Quai bị là một bệnh nhiễm virus toàn thân cấp tính đặc trưng bởi sưng tuyến mang tai và các tuyến nước bọt khác do một loại Paramyxovirus gây nên.

Bệnh thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên; bệnh chỉ mắc một lần. Ngoài biểu hiện viêm tuyến nước bọt còn có thể gặp viêm tinh hoàn, viêm tuỵ, viêm màng não…

1. Tác nhân gây quai bị

Nguyên nhân gây bệnh quai bị là Paramyxovirus. Virus có một lớp lõi hình xoắn ốc kín chứa chuỗi RNA được bọc trong một lớp vỏ lipid và protein. Virus quai bị có hai kháng nguyên: kháng nguyên S xuất phát từ màng nhân và kháng nguyên V từ hemaggglutinin bề mặt. Kháng nguyên V gây bệnh và ngưng kết hồng cầu.

2. Dịch tế học

Bệnh thường xảy ra cuối mùa Xuân, đặc biệt vào tháng 4 và 5. Lây từ người này sang người khác qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt. Bệnh thường dễ lây lan ở những nơi tập trung nhiều người như vườn trẻ, trường học, doanh trại bộ đội…

Thời gian lây truyền: Nguy cơ lây truyền cao nhất từ 6 ngày trước khi khởi phát và kéo dài đến 2 tuần sau khi sưng tuyến mang tai. Người ta phân lập được virus trong nước bọt 7 ngày trước đến 9 ngày sau khi khởi phát, dù cho thời kỳ lây nhiễm có khi ngắn hơn.

Đối tượng: nam nhiều hơn nữ. Bệnh hiếm ở trẻ < 2 tuổi do chúng còn được bảo vệ bởi các kháng thể từ mẹ. Đỉnh cao từ 10-19 tuổi (tưổi thanh thiếu niên), ít gặp ở người cao tuổi.

3. Sinh bệnh học

Virus quai bị xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp. Trong suốt thời kỳ ủ bệnh (khoảng 12-25 ngày) virus phát triển, nhân lên trong biểu mô đường hô hấp trên và các tổ chức bạch huyết vùng cổ. Ở giai đoạn xâm nhập, virus theo đường máu đến các cơ quan khác như màng não, tuyến sinh dục, tụy, tuyến ức, gan, tim, thận và thần kinh trung ương, riêng tuyến nước bọt có lẽ thứ phát sau nhiễm virus máu. Ở giai đoạn toàn phát, virus được cố định ở các cơ quan tuyến và cơ quan thần kinh. Virus được thải chủ yếu qua nước bọt, nhưng cũng được thải qua nước tiểu trong những ngày đầu tiên của bệnh.

4. Giải phẫu bệnh

Những thay đổi bệnh lý được ghi nhận tại tuyến mang tai trong suốt thời kỳ quai bị cấp gồm phù tổ chức kẽ, tẩm nhuận tế bào lympho và xuất tiết các sợi tương dịch. Ống tuyến chứa đầy tế bào hoại tử và neutrophiles.

Những tổn thương tương tự cũng được tìm thấy ở các cơ quan khác như tụy và tinh hoàn. Trong bối cảnh viêm tinh hoàn do quai bị người ta thấy có những vùng nhồi máu và phản ứng viêm nặng nề, hầu hết những vùng này có hiện tượng tế bào biểu mô sinh tinh bị hyaline hóa và xơ hóa

Khi não bị thâm nhiễm, thì viêm não màng não tiên phát với tiêu hủy tế bào thần kinh hoặc thóai hóa myeline sau viêm não có thể xảy ra.

5. Lâm sàng bệnh quai bị

Có khoảng 1/3 trường hợp nhiễm virus quai bị không có triệu chứng.

  • Thời kỳ ủ bệnh: trung bình 18-21 ngày (thay đổi từ 12-25 ngày)
  • Thời kỳ khởi phát: trung bình 24 – 36 giờ. Toàn thân: mệt mỏi, chán ăn, đau nhức mình mẩy, sốt nhẹ, viêm họng, đau tai kéo dài vài ngày trước khi sưng tuyến mang tai
  • Toàn phát: Bắt đầu sưng tuyến mang tai, sốt giảm ( chừng 380C ), đau đầu, có thể có các biểu hiện triệu chứng tại các cơ quan khác.

6. Biểu hiện ở các cơ quan tuyến

  • Viêm tuyến nước bọt mang tai và các tuyến nước bọt khác

Là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất ( khoảng 70 % trường hợp ). Thường đột ngột sau thời kỳ khởi phát, tuyến mang tai sưng đạt tối đa sau 1 – 3 ngày ( có tài liệu : 2 – 6 ngày ) và giảm dần sau 7 – 10 ngày. Đầu tiên chỉ có sưng một bên, sau đó có thể sưng tuyến bên kia. Sưng cả 2 tuyến chiếm 2/3 trường hợp, một đôi khi kèm sưng tuyến nước bọt dưới hàm và dưới lưỡi.

Tuyến mang tai sưng từ tai đến dưới hàm và lan ra tận gò má, mất rảnh trước và sau tai. Vùng da trên tuyến không nóng và đỏ như trong viêm tuyến mang tai nhiễm trùng, có tính đàn hồi và không để lại đấu ấn ngón tay.

Bệnh nhân có cảm giác đau tai, nhất là khi ăn hoặc uống các thức ăn có vị chua do nghẽn ống Wharton hoặc Stenon. Khám họng thấy miệng các lỗ ống tuyến nước bọt có thể trở nên đỏ, phù nề và có những điểm xuất huyết nhỏ. Có thể sưng các hạch dưới hàm.

  • Viêm tinh hòan-mào tinh hoàn

Xảy ra ở 20-30% nam giới sau tuổi dậy thì bị quai bị , hiếm gặp ở trẻ nhỏ.

Trong số này chỉ có 15-25% xảy ra hai bên; 2/3 trường hợp xảy ra trong tuần lễ đầu.

Tòan thân : Sốt cao 39-410C, ớn lạnh, nôn mửa, đau vùng bìu, đau lan lên bụng và đùi. Thăm khám: Vùng da bìu đỏ, nóng, tinh hòan sưng to gấp 3-4 lần bình thường. Các triệu chứng này biến mất sau 1-2 tuần . Gần 85% trường hợp viêm tinh hòan là viêm mào tinh hòan. Có 0,5% trường hợp teo tinh hòan và thường là 1 bên, nếu teo xảy ra ở 2 bên có thể vô sinh hoặc có thể có bất thường về tinh dịch.

  • Viêm tụy

Gặp ở cả người lớn và trẻ em. Xảy ra vào ngày thứ 3-7 sau sưng tuyến mang tai. Bệnh nhân sốt 39-400C, nôn mửa,ì đau thượng vị, bụng có đề kháng nhẹ. Phần lớn trường hợp thường hồi phục hoàn toàn sau một tuần. Hiếm gặp biến chứng sốc hoặc nang giả tuỵ thứ phát.

  • Viêm tuyến vú và viêm buồng trứng

Xảy ra ở nữ sau tuổi dậy thì: Viêm tuyến vú (7-30%)

Viêm buồng trứng (5%): Triệu chứng gồm: sốt, nôn mủa , đau bụng đau hố chậu. Khám vùng hố chậu thấy buồng trứng căng, biến chứng vô sinh ít gặp.

Biểu hiện ở các cơ quan thần kinh

  • Viêm màng não

Gặp ở 5 – 10 % trường hợp quai bị, xảy ra 3-10 ngày sau sưng tuyến mang tai (có khi 2-3 tuần sau). Lâm sàng thường có một hội chứng màng não có sốt. Các triệu chứng này giảm dần sau 3-10 ngày và thường khỏi hòan tòan, không để lại di chứng.

Dịch não tủy có những biến đổi bất thường có thêí kéo dài khỏang 1 tháng: Protein bình thường hoặc tăng nhẹ, Glucose bình thường, Tế bào < 500/mm3, đa số là Lympho, có khỏang 20-25% trường hợp có Neutrophile tăng.

  • Viêm não

Viêm não quai bị ít xảy ra hơn, tần suất 0,5%, nam > nữ, xảy ra 7-10 ngày sau sưng tuyến mang tai hoặc xảy ra cùng lúc. Lâm sàng : hội chứng nhiễm trùng, hội chứng màng não và các dấu hiệu tổn thương não : dấu thần kinh khu trú, lơ mơ, hôn mê hoặc co giật. Bệnh tiến triển có khi rất nặng và để lại di chứng vận động và/hoặc tâm thần, não úng thuỷ, tử vong ( 1,5% trường hợp).

  • Các biểu hiện khác

Viêm cơ tim và màng ngoài tim, Viêm khớp, Rối lọan chức năng thận.

Quai bị ở phụ nữ có thai

Trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai, còn trong 3 tháng cuối có thể gây đẻ sớm. Khả năng gây quái thai của virus quai bị còn chưa rõ.

7. Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

7.1 Chẩn đoán

  • Ở tuyến y tế cơ sở : Chủ yếu dựa vào lâm sàng và dịch tễ : Bệnh nhân có các triệu chứng nhiễm virus, sưng tuyến nước bọt , viêm tinh hoàn…Trong gia đình hoặc lớp học có người đã bị quai bị trước đó vài ngày hoặc đang bị…
  • Ở tuyến tỉnh, trung ương: Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, dịch tễ, kết quả xét nghiệm:
  • CTM: Trong quai bị chỉ có BC giảm nhẹ kèm tăng các tế bào lympho. Trường hợp có viêm tinh hoàn hoặc tổn thương các cơ quan khác bạch cầu có thể tăng với đa số là bạch cầu đa nhân trung tính.
  • Amylase máu và niệu : Tăng trong viêm tụy và viêm các tuyến nước bọt
  • Phân lập virus: Virus có thể phân lập được từ máu, chất tiết ở cổ họng, nước bọt, từ ống Stenon, DNT, nước tiểu.
  • Test ELISA, Miễn dịch phóng xạ, Test cố định bổ thể cho phép xác định hàm lượng các kháng thể IgM và IgG nhanh chóng và đặc hiệu.

7.2 Chẩn đoán phân biệt

Trường hợp có sưng tuyênú mang tai ta cần phân biệt với viêm tuyến mang tai do nhiễm các virus khác (coxaskievirus, virus cúm và phó cúm) hoặc vi khuẩn (có mủ chảy ra ở lổ của ống Stenon, thường do tụ cầu hoặc liên cầu ) hoặc viêm hạch bạch huyết góc hàm do bạch hầu.

Phân biệt viêm tinh hòan do quai bị và một sôï viêm tinh hòan do nhiễm khuẩn hay gặp là: lậu, lao, Lepstospira, thủy đậu , Brucellose…hoặc xoắn tinh hoàn.

8. Điều trị bệnh quai bị

Chưa có điều trị đặc hiệu, tác dụng lên virus quai bị. Chủ yếu là điều trị các triệu chứng xuất hiện trên lâm sàng:

8.1 Trường hợp chỉ có sưng tuyến nước bọt đơn thuần

  • Vệ sinh răng miệng, tránh thức ăn quá chua, ăn lỏng nhẹ,giàu năng lượng.
  • Nghỉ ngơi tại giường đặt ra khi còn sốt, có thể dùng các thuốc Paracetamol hoặc Aspirin để kháng viêm, giảm đau và hạ sốt. Tránh dùng các thuốc kháng viêm non-steroid ở trẻ em.
  • Có thể dùng thêm Vitamine C 1-2 g/ngày bằng đường uống.

8.2 Trưòng hợp có viêm tinh hòan

  • Nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường, chườm lạnh, mặc quần lót bó sát..
  • Dùng thuốc giảm đau và chống viêm như Aspirin và thuốc kháng viêm non- steroid.
  • Vấn đề dùng corticoid chỉ đặt ra khi có viêm não hoặc màng não quai bị hoặc có viêm tinh hòan trầm trọng , viêm tụy .

8.3 Trong các trường hợp viêm tụy

  • Cho bệnh nhân nghỉ ngơi, truyền dịch, nhịn ăn, dùng các thuốc giảm đau, chống nôn.
  • Viêm não – màng não
  • Bệnh nhân phải được điều trị ở phòng cấp cứu.

9. Dự phòng bệnh quai bị

9.1 Dự phòng tập thể

Tuyên truyền cho cộng đồng biết các dấu hiệu nghi ngờ quai bị và cách phòng bệnh. Người mắc quai bị phải được cách ly tối thiểu 9 ngày khi lâm sàng có triệu chứng sưng tuyến mang tai, nhất là khi bệnh nhân ở trong các tập thể như nhà trẻ , trường học ,trại lính .v.v.

9.2 Tạo miễn dịch chủ động

Vắc xin quai bị có hiệu quả bảo vệ > 95% trường hợp có tiếp xúc với nguồn bệnh. Vắc xin được tiêm dưới da liều duy nhất 0,5 ml, có thể dùng đơn độc hoặc kết hợp với sởi và Rubella (MMR: Mump, Measle, Rubella). Đối tượng chủng ngừa là trẻ >12 tháng trở đi . Trẻ em , thanh thiếu niên và người lớn đều có thể chủng ngừa quai bị.

9.3 Miễn dịch thụ động

Dùng globuline miễn dịch chống quai bị. Chỉ có hiệu quả trong 4 ngày đầu sau khi nhiễm virus. Liều duy nhất 0,3 ml/kg cân nặng, tiêm bắp cho đối tượng tiếp xúc với người bệnh mà chưa có miễn dịch hoặc phụ nữ có thai.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Người bệnh bị u xương có nguy hiểm không?

U xương là một bệnh lý liên quan đến sự phát triển bất thường của mô xương. Bệnh này có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng thường gặp hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt trong giai đoạn xương phát triển nhanh.

Người bệnh bị u xương có nguy hiểm không?

Để trả lời câu hỏi “Người bệnh bị u xương có nguy hiểm không?”, cần hiểu rõ về bản chất, phân loại, triệu chứng, và phương pháp điều trị của bệnh này trong bài viết được chia sẻ bởi chuyên gia y tế tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội như sau:

U xương là gì?

U xương là sự tăng sinh bất thường của các tế bào xương, dẫn đến hình thành các khối u trong xương. Khối u có thể lành tính hoặc ác tính. Trong đó:

  • U xương lành tính: Không gây ung thư và thường không lan sang các bộ phận khác. Một số loại phổ biến bao gồm u xương xốp, u sụn và u sụn xương.
  • U xương ác tính: Gây ung thư, còn gọi là sarcoma xương. Đây là loại nguy hiểm, có khả năng lan rộng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.

Triệu chứng của u xương là gì?

Triệu chứng bệnh cơ xương khớp của u xương phụ thuộc vào loại u và vị trí xuất hiện. Một số biểu hiện thường gặp bao gồm:

  1. Đau xương: Đau thường âm ỉ và tăng dần theo thời gian, nhất là vào ban đêm hoặc khi hoạt động.
  2. Sưng tấy: Vùng bị u có thể sưng, đôi khi gây biến dạng xương.
  3. Hạn chế vận động: Nếu u xuất hiện gần khớp, có thể gây cứng khớp hoặc khó vận động.
  4. Gãy xương: U làm yếu cấu trúc xương, khiến xương dễ gãy hơn bình thường.

U xương có nguy hiểm không?

Mức độ nguy hiểm của u xương phụ thuộc vào tính chất lành tính hay ác tính của khối u:

  • U lành tính: Thường không nguy hiểm nếu được phát hiện và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, một số u lành tính có thể gây biến chứng như chèn ép mạch máu hoặc dây thần kinh.
  • U ác tính: Là tình trạng nghiêm trọng, đòi hỏi điều trị tích cực. Nếu không được kiểm soát, u ác tính có thể lan rộng (di căn) đến các cơ quan khác như phổi hoặc gan, đe dọa tính mạng người bệnh.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ u xương là gì?

Hiện chưa rõ nguyên nhân chính xác gây u xương, nhưng một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh, bao gồm:

  • Di truyền: Một số hội chứng di truyền liên quan đến nguy cơ mắc u xương, như hội chứng Li-Fraumeni.
  • Chấn thương xương: Chấn thương lâu ngày hoặc viêm xương mạn tính có thể làm tăng nguy cơ phát triển u xương.
  • Phơi nhiễm phóng xạ: Tiếp xúc với phóng xạ trong thời gian dài có thể gây biến đổi tế bào xương.

Phương pháp chẩn đoán u xương như thế nào?

Để chẩn đoán u xương, bác sĩ thường kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm:

  1. Chụp X-quang: Phát hiện hình ảnh bất thường của xương.
  2. MRI hoặc CT scan: Cung cấp hình ảnh chi tiết hơn, giúp xác định mức độ lan rộng của khối u.
  3. Sinh thiết xương: Lấy mẫu mô từ khối u để kiểm tra tính chất lành tính hay ác tính.
  4. Xét nghiệm máu: Đo nồng độ một số chất chỉ điểm liên quan đến u xương.

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Xét nghiệm 

Điều trị u xương như thế nào?

Dược sĩ Cao đẳng Dược cho hay: Phương pháp điều trị phụ thuộc vào loại u và mức độ tiến triển của bệnh:

  1. Phẫu thuật: Là phương pháp chính, đặc biệt với các khối u lành tính hoặc ác tính ở giai đoạn đầu. Phẫu thuật thường nhằm loại bỏ hoàn toàn khối u.
  2. Hóa trị: Sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư, thường áp dụng cho u ác tính.
  3. Xạ trị: Sử dụng tia phóng xạ để tiêu diệt tế bào ung thư, áp dụng khi không thể phẫu thuật hoặc kết hợp với hóa trị.
  4. Theo dõi định kỳ: Với u lành tính nhỏ, bác sĩ có thể chỉ định theo dõi mà không cần can thiệp ngay.

Cách phòng ngừa và chăm sóc

Hiện không có biện pháp phòng ngừa hoàn toàn u xương, nhưng việc duy trì lối sống lành mạnh và khám sức khỏe định kỳ có thể giúp phát hiện sớm bệnh. Người bệnh cần:

  • Tăng cường dinh dưỡng: Bổ sung thực phẩm giàu canxi và vitamin D để hỗ trợ sức khỏe xương.
  • Hạn chế nguy cơ chấn thương: Đặc biệt ở trẻ em và người già.
  • Tuân thủ chỉ định điều trị: Đối với người đã mắc bệnh, điều trị đúng cách và theo dõi thường xuyên là rất quan trọng.

U xương có thể nguy hiểm, đặc biệt khi là u ác tính. Tuy nhiên, nếu được phát hiện và điều trị sớm, người bệnh có cơ hội hồi phục và kiểm soát bệnh tốt. Quan trọng nhất là lắng nghe cơ thể, thăm khám kịp thời khi có dấu hiệu bất thường và tuân thủ kế hoạch điều trị do bác sĩ chỉ định.

Nguồn:  benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Suy Hô Hấp Cấp – Triệu Chứng Và Điều Trị

Suy hô hấp cấp là sự rối loạn nặng nề của sự trao đổi oxy máu; một cách tổng quát, suy hô hấp cấp là một sự giảm thực sự áp lực riêng phần khí oxy trong động mạch (PaO2) < 60 mmHg, áp lực riêng phần khí carbonic trong động mạch (PaCO2) có thể bình thường, giảm hay tăng.

Suy hô hấp cấp

Có 2 loại suy hô hấp cấp:

  • Suy hô hấp cấp với thiếu oxy máu kèm ứ khí cácbonic.
  • Suy hô hấp cấp với thiếu oxy máu kèm giảm khí cácbonic.

I. Bệnh nguyên

1. Nguyên nhân tại phổi

Sự mất bù cấp của những suy hô hấp mạn

Yếu tố làm dễ là nhiễm trùng phế quản – phổi, thuyên tắc động mạch phổi, tràn khí màng phổi.

Những bệnh phổi nhiễm trùng:

Chúng xảy ra trên phổi lành thì chỉ gây suy hô hấp cấp khi những nhiễm trùng phổi đó lan rộng ra nhiều thùy: phế quản phế viêm do vi trùng mũ, lao kê, nhiễm virus ác tính.

1.1 Phù phổi cấp

  • Phù phổi cấp do tim

Tất cả những nguyên nhân gây suy tim trái: tăng huyết áp liên tục hay cơn tăng huyết áp, suy mạch vành trong đó nhồi máu cơ tim là nguyên nhân thường gặp nhất, hẹp hở van động mạch chủ, hở van hai lá, bệnh cơ tim.

  • Hẹp van hai lá.
  • Thuyên tắc động mạch phổi.

Phù phổi cấp trên tim lành: do yếu tố tăng áp lực mao quản.

  • Chuyền dịch quá nhiều.

Nguyên nhân thần kinh: chấn thương sọ não, u hay phẫu thuật chạm đến thân não, viêm não.

  • Phù phổi cấp do tổn thương thực thể

Trước hết phải kể đến cúm ác tính do nhiều yếu tố: yếu tố virus, yếu tố cơ địa, vì những thể nặng gặp chủ yếu ở người đã bị bệnh tim trái, hẹp hai lá, nhất là ở người già, đàn bà có thai; ở trẻ em bị nhiễm virus nặng dưới dạng viêm tiểu phế quản – phế nang. Ít gặp hơn là do chất độc (héroin, oxyd cácbon, nọc rắn độc), sốc nhiễm trùng, thuyên tắc do mỡ, chết đuối, hội chứng Mendelson (hít phải dịch vị do ợ).

  • Hen phế quản đe dọa nặng, hen phế quản cấp nặng

Đây là bệnh thường gặp, thường là do điều trị không đúng cách hay không kịp thời có thể do cơ địa bệnh nhân dễ bị hen phế quản nặng.

  • Tắc nghẽn phế quản cấp

Bệnh nầy ít gặp, ở trẻ em có thể do vật lạ, ở người lớn có thể do u, xẹp phổi cấp có thể do đặt nội khí quản.

2. Nguyên nhân ngoài phổi

  • Tắc nghẽn thanh – khí quản

Bệnh nầy do u như u thanh quản, bướu giáp chìm, u thực quản vùng cổ, u khí quản; do nhiễm trùng như viêm thanh quản, uốn ván; do vật lạ lớn.

  • Tràn dịch màng phổi

Ít gây suy hô hấp cấp nếu tràn dịch từ từ, chỉ gây suy hô hấp cấp khi tràn dịch cấp, lượng dịch tăng nhanh.

  • Tràn khí màng phổi thể tự do

Thường do lao phổi, vỡ bóng khí phế thủng, vỡ kén khí bẩm sinh, tự phát (không rõ nguyên nhân), có thể do vỡ áp xe phổi luôn luôn kèm tràn mủ màng phổi.

  • Chấn thương lồng ngực

Bệnh này gây gãy xương sườn từ đó gây tổn thương màng phổi và phổi.

  • Tổn thương cơ hô hấp

Nguyên nhân thường gặp là viêm sừng trước tủy sống, hội chứng Guillain Barré kèm liệt lên cấp Landry, uốn ván, rắn cắn, ngộ độc thuốc trừ sâu gốc phốtpho hữu cơ, bệnh nhược cơ nặng, viêm đa cơ.

  • Tổn thương thần kinh trung ương

Nguyên nhân thường là chấn thương sọ não, ngộ độc thuốc, tai biến mạch máu não; những nguyên nhân gây nên tổn thương trung tâm hô hấp.

II. Cơ chế sinh bệnh

1. Cơ chế gây nên thiếu oxy máu

  • Giảm thông khí phế nang

Áp lực khí oxy trong phế nang được xác định bởi sự quân bình giữa tốc độ mất đi của khí oxy, chức năng chuyển hóa ở mô và tốc độ đổi mới của khí oxy bởi thông khí phế nang. Nếu thông khí phế nang giảm một cách bất thường thì áp lực oxy trong phế nang giảm rồi áp lực riêng phần khí oxy trong động lạch giảm theo. Sự giảm thông khí phế nang có thể thứ phát sau một tổn thương trung tâm hô hấp (hôn mê, ngộ độc thuốc) hay một sự vô hiệu hóa hoạt động lồng ngực – phổi (tổn thương sừng trước tủy sống, tổn thương cơ hô hấp hay dây thần kinh chi phối).

  • Sự mất cân bằng giữa thông khí / tưới máu

Sự kém hài hòa giữa thông khí và lưu lượng máu là nguyên nhân gây nên sự rối loạn trao đổi khí trong một đơn vị phổi; tỉ thông khí / tưới máu gần bằng 1; áp lực khí oxy và khí cácbonic trong phế nang là 100 mmHg và 40 mmHg gần bằng áp lực riêng phần khí oxy và khí cácbonic trong động mạch. Nếu không khí giảm, tỉ thông khí / tưới máu: VA / Q bằng 0 thì áp lực khí oxy và khí cácbonic trong phế nang và áp lực riêng phần khí oxy và khí cácbonic gần bằng nhau, áp lực riêng phần khí oxy và khí cácbonic trong tĩnh mạch là 40 mmHg và 45 mmHg.

Nếu sự tưới máu giảm, thì tỉ thông khí / tưới máu có khuynh hướng vô hạn, áp lực khí trong phế nang và trong động mạch gần bằng áp lực khí hít vào (PO2 = 150mmHg, PCO2 = 0). Ở phổi, tỉ thông khí / tưới máu thay đổi theo vùng và theo bệnh lý. Có 3 loại bất thường của tỷ nầy:

  • Shunt phổi

Bất thường này là sự lưu thông máu trong hệ thống động mạch không đi qua những vùng được hô hấp. Người ta gặp shunt phổi trong phù phổi, xẹp phổi.

  • Hiệu quả shunt

Bất thường nầy tương ứng với sự khuếch tán của những đơn vị phổi mà thông khí giảm, tỉ thông khí / tưới máu giảm, nhưng những phế nang vẫn còn hoạt động ít nhất ở giai đoạn đầu của sự thông thương với đường hô hấp; thiếu oxy máu là do sự giảm sự cung cấp khí oxy của máu tĩnh mạch. Người ta gặp hiệu quả shunt trong phù phổi, bệnh phổi cấp, viêm phế quản cấp, viêm phế quản mạn, tràn dịch màng phổi.

  • Hiệu quả khoảng chết

Bất thường nầy do sự giảm thông khí của một đơn vị phổi vẫn còn hô hấp được, tỉ thông khí / tưới máu có khuynh hướng vô hạn. Sự nghẽn hay phá hủy mạch máu phổi (thuyên tắc động mạch phổi, khí phế thủng) gây nên một khoảng chết thêm vào khoảng chết giải phẫu.

Sự thiếu oxy máu càng nặng khi số lượng phế nang không tham gia vào sự trao đổi khí vàng nhiều; sự tăng thông khí (thở bù) đưa đến một sự giảm khí cácbonic máu nếu khí trong phế nang không bị ứ lại trong kỳ thở ra (viêm phế quản mạn, hen phế quản cấp nặng).

2. Rối loạn khuếch tán

Một vài bệnh phổi như bệnh phổi kẽ xơ hóa gây nên tổn thương màng phế nang – mao mạch, bề dày màng nầy > 0,5(, như vậy sẽ làm giảm sự trao đổi khí oxy từ phế nang sang mao mạch. Vai trò bloc phế nang – mao lạch gây nên thiếu oxy máu còn bàn cải.

  • Cơ chế gây nên sự thay đổi khí cácbonic trong máu

Áp lực khí cácbonic trong phế nang và trong động mạch thay đổi ngược chiều với thông khí phế nang. Những sự thay đổi của sự tạo khí cácbonic thường nhỏ và đóng một vai trò không quan trọng trong những sự thay đổi khí cácbonic trong máu.

  • Giảm khí cácbonic máu

Hiện tượng này là hậu quả của sự tăng thông khí gây nên do thiếu oxy máu.

  • Tăng khí cácbonic máu

Hiện tượng này là một sự không thích ứng của hệ số thanh lọc phổi đối với khí cácbonic, nó tương ứng với một sự giảm thông khí phế nang.

III. Triệu chứng suy hô hấp cấp

1. Lâm sàng

  • Nhịp thở và biên độ hô hấp

Thiếu oxy máu và hay là tăng khí cácbonic máu gây nên thở nhanh, tần số thở khoảng 40 lần / phút phối hợp với sự co kéo các cơ hô hấp, thấy rõ ở hỏm trên xương ức và các khoảng gian sườn; ở trẻ em có thể kèm theo cánh mũi phập phồng. Trong những trường hợp có tổn thương do liệt (viêm đa rễ thần kinh, liệt 4 chi do tổn thương tủy sống, bệnh nhược cơ nặng…), tần số thở thường giảm, biên độ hô hấp yếu, bệnh nhân không ho được, do đó gây nên ứ đọng đàm giải trong phế quản.

Theo dõi nhịp thở rất quan trọng vì nhịp thở chậm có thể là sự cải thiện của trao đổi khí oxy máu nhưng cũng có thể là sự suy kiệt cơ hô hấp nhất là trong trường hợp hen phế quản cấp nặng.

Trong các bệnh thanh – khí quản, người ta thấy có sự phối hợp khó thở vào.

  • Tím

Tím là dấu chứng chủ yếu, xuất hiện ở môi, đầu tay chân, mặt hay toàn thân khi hemoblogine khử > 50g / l. Tỉ nầy tương ứng với độ bão hoà khí oxy trong máu động mạch là 85 %. Tím càng rõ khi hemoglobine máu càng cao (suy hô hấp mạn); không thấy rõ tím khi thiếu máu nặng. Tím thường phối hợp với tăng khí cácbonic máu, tím đi kèm giãn mạch ở đầu chi, đôi khi có vã mồ hôi.

  • Dấu chứng tuần hoàn

Thiếu oxy máu và tăng khí cácbonic máu làm tăng tỉ catécholamine và như vậy làm mạch nhanh, gây nên những cơn tăng huyết áp và tăng cung lượng tim, có thể có loạn nhịp trên thất, giai đoạn sau huyết áp có thể hạ.

  • Dấu chứng suy thất phải cấp

Đặc biệt thường gặp trong đợt cấp của suy hô hấp mạn. Dấu chứng chính là: gan lớn, dấu hiệu phản hồi gan tĩnh mạch cổ, nặng hơn là tĩnh mạch cổ nổi tự nhiên (ở tư thế 450), những dấu chứng nầy giảm khi suy hô hấp cấp giảm.

  • Dấu chứng thần kinh tâm thần

Dấu chứng nầy chỉ gặp trong suy hô hấp cấp nặng; đó là trạng thái kích thích, vật vã, rối loạn tri giác như lơ mơ hay hôn mê.

2. Cận lâm sàng

  • Khí máu

– Bình thường – PaO2 là 80- 95 mmHg.

– PaCO2 là 38 – 43 mmHg.

– pH máu là 7,38 – 7,43

– Dự trử kiềm là 24 – 26 mmol / l.

  • Bệnh lý

– Thiếu oxy máu: PaO2 có thể giảm chỉ còn 25 mmHg.

– Rối loạn khí cácbonic: sẽ đưa đến rối loạn cân bằng toan kiềm.

– Tăng PaCO2: đưa đến toan hô hấp mà sự bù trừ là nhờ những chất đệm của máu và của mô và nhờ sự thải ion Hqua thận.

– Khi có tăng PaCO2 cấp, cơ chế đệm lúc đầu là huyết tương và huyết cầu, sau đó là mô và thận can thiệp trong giai đoạn 2 vào giờ thứ 24 bằng cách tăng thải trừ ion Hvà tái hấp thu ion Navà bicarbonate.

– Toan hô hấp gọi là còn bù khi những chất đệm tế bào được sử dụng giữ cho pH không giảm. Sự bù trừ nầy được giới hạn bởi sự gia tăng bicarbonate không quá 50 mmol/l.

– Giảm PaCO2: đưa đến kiềm hô hấp với giảm bicarbonate huyết tương.

– Khảo sát tim mạch

– Tâm điện đồ và thông tim phải, siêu âm Dopler tim để khảo sát các tổn thương tim.

– Phim lồng ngực

– Xét nghiệm nầy cần thực hiện để có thể phát hiện những tổn thương ở chủ mô phổi, màng phổi, trung thất.

IV. Phân giai đoạn suy hô hấp cấp

Bảng 1: Các giai đoạn của suy hô hấp cấp

Triệu chứng Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Giai đoạn 4
Khó thở Khi gắng sức, khi nằm lồng ngực di động được. Liên tục, lồng ngực di động

khó khăn

Liên tục, lồng ngực không di động, cơ hô hấp còn hoạt động mạnh Liên tục, các cơ hô hấp hoạt động yếu, thở nông, rối loạn hô hấp
Tần số thở

lần/phút

25-30 khi gắng sức

 

25 – 30 30 – 40

40

< 10

Tím Khi gắng sức Môi, đầu chi Mặt, mô, chi, đầu Toàn thân
Mồ hôi 0 ±
Mạch lần/phút 90 – 100 100 – 110 110 – 120 > 120
Huyết áp Bình thường Bình thường Cao Cao hay hạ
Rối loạn ý thức Không Không Vật vã Lơ mơ, hôn mê
SaO2 (%) 80 – 90 70 – 80 60 – 70 < 60
PaCO2 (mmHg) 40 45 – 55 55 – 70 > 70
pH máu 7,35 – 7,40 7,30 – 7,35 7,25 – 7,30 < 7,25
Dự trữ kiềm Bình thường Bình thường

Giảm

Giảm

V. Tiến triển và biến chứng

Suy hô hấp nếu được điều trị đúng mức thì có thể lui bệnh hoàn toàn. Trong quá trình tiến triển có thể bội nhiễm phổi hay đường tiểu nhất là đối với những bệnh nhân có đặt nội khí quản hay đặt xông tiểu.

Suy hô hấp cấp nếu điều trị không kịp thời thì có thể tiến triển nặng dần, bệnh nhân có thể hôn mê và tử vong.

VI. Điều trị suy hô hấp cấp

1. Nguyên tắc điều trị

  • Làm thông thoáng đường hô hấp.
  • Liệu pháp oxy.
  • Đặt ống nội khí quản, mở khí quản, hỗ trợ hô hấp.
  • Chống nhiễm khuẩn, bội nhiễm.
  • Kiềm hóa huyết tương.

2. Điều trị cụ thể

  • Điều trị hổ trợ và giải phóng đường hô hấp
  • Lau hút sạch mồm, họng, mũi
  • Đặt canuyn Mayo để khỏi tụt lưỡi
  • Hút đàm giải, chất xuất tiết bằng máy hút
  • Rửa phế quản, làm loãng đàm bằng khí dung, bằng bơm dung dịch bicarbonate de natri 14‰ hay dung dịch chlorure de natrri 9‰, 2 – 5 ml mỗi lần rồi hút ra.
  • Bồi phụ nước và điện giải và thăng bằng toan-kiềm
  • Đảm bảo có sự cân bằng giữa lượng dịch ra và vào hàng ngày, tránh khô quánh đàm, chất xuất tiết phế quản. Nếu có toan hô hấp thì phải truyền dịch kiêm như bicarbonate natri 14‰.
  • Liệu pháp oxy

Thở oxy

  • Khí oxy phải làm ẩm và làm ấm oxy đó trước khi sử dụng cho bệnh nhân. Khí oxy phải qua một bình chứa nước và được làm ấm bằng máy siêu âm hay bằng những tấm được làm nóng lên.
  • Những phương tiện thở oxy
  • Xông mũi thường đựoc áp dụng
  • Thường dùng nhất đầu của ống xông có nhiều lỗ, đặt không vượt quá lỗ mũi sau (chiều dài là khoảng cách giữa mũi và dái tai).
  • Xông mũi có thể dùng cho những cung lượng từ 1 – 6 lít / phút, thường dùng trong những trường hợp suy hô hấp nhẹ hay vừa.

Chỉ định

  • Thở oxy nguyên chất
  • Áp dụng trong rất ít trường hợp như ngưng tim, chảy máu nặng.
  • Khí thở được tăng cường oxy
  • Những bệnh nhân có nồng độ khí carbonic máu bình thường hay giảm: Tất cả những tình trạng thiếu oxy máu thì PaO2 đều giảm dưới 65 mmHg, cho thở oxy với cung lượng 4 – 6 lít / phút bằng xông mũi hay trong những trường hợp thiếu oxy nặng hơn thì sử dụng mặt nạ oxy.
  • Những bệnh nhân có nồng độ khí carbonic trong máu cao mạn tính: đó là những trường hợp suy hô hấp mạn, cung lượng oxy dùng ở bệnh nhân bị suy hô hấp mạn là thấp khoảng 1 – 3 lít / phút, thở ngắt quảng và được kiểm soát nồng độ các khí trong máu.

Đặt nội khí quản

  • Chỉ định

– Khi có trở ngại đường hô hấp trên như phù nề, vết thương thanh quản, hôn mê gây tụt lưỡi.

– Khi cần giảm khoảng chết để tăng thông khí phế nang, hỗ trợ hô hấp, cần thở oxy, thở máy.

– Khi có tăng khí cácbonic máu.

– Khi cần bảo vệ đường hô hấp, phòng hít sai lạc.

  • Phương pháp

Có hai phương pháp:

Đặt nội khí quản đường mũi

Còn gọi là đặt nội khí quản mò, là phương pháp được dùng phổ biến, nhất là đối với trẻ sơ sinh, trẻ còn bú và trẻ em, đặc biệt trong bệnh uốn ván và trong hồi sức nội khoa. Bệnh nhân đặt ở tư thế Jackson cải tiến: nằm ngữa, kê vai cao 5-7 cm để ngữa cổ vừa phải hoặc tư thế nửa ngồi, nhất là khi sợ máu, mủ, dịch…từ phổi bệnh trào sang phổi bên kia.

Đặt nội khí quản đường miệng

  • Bệnh nhân được đặt trong tư thế như trên: tư thế Jackson hay nửa ngồi. Cho thở oxy vài phút trước khi đặt ống.
  • Thông thường, ống không đặt quá 3 ngày.
  • Mở khí quản

Chỉ định

Như chỉ định đặt nội khí quản hay không đặt được ống hay khi cần đặt ống quá 3 ngày.

Phương pháp

  • Mở khí quản cao: dễ thấy khí quản hơn – Mở khí quản thấp.
  • Tai biến có thể gặp khi đặt nội khí quản và mở khí quản
  • Tai biến khi đặt
  • Chảy máu, phù nề thanh quản, thủng khí quản, co thắt thanh môn, ngưng tim.
  • Tai biến sau khi đặt
  • Nhiễm khuẩn nơi đặt, viêm phổi, loét, hoại tử khí quản, rò khí thực quản, tổn thương dây thanh âm, xẹp phổi, tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất, tràn khí dưới da.
  • Hỗ trợ hô hấp
  • Dụng cụ hỗ trợ hô hấp bằng tay
  • Khí thở được cung cấp cho bệnh nhân là khí trời.
  • Loại có bóng: Ambu, Canister.
  • Loại có túi xếp: Ranima, Drager.

Thở máy

Chỉ định

Thở máy được dùng khi các phương pháp hỗ trợ hô hấp thông thường không có hiệu quả.

Ba loại bệnh nhân lớn tương ứng với ba mức độ khác nhau về khí carbonic trong máu. Mỗi loại bệnh nhân cần một cách thức điều chỉnh hô hấp nhân tạo khác nhau:

Loại bệnh nhân thứ nhất: là loại có một sự gia tăng nhiều khí carbonic kèm một sự giảm khí oxy máu, như sự mất bù cấp của những suy hô hấp mạn, thở oxy phải bắt đầu với cung lượng thấp, sau đó tăng dần lên nhưng rất chậm, khả năng cung cấp oxy (FiO2) cao nhất là lúc khởi đầu.

Loại bệnh nhân thứ hai: là loại đang hình thành sự tăng khí carbonic máu, bệnh nhân này có thể hô hấp hoàn toàn bình thường với FiO2 khoảng 50%.

Loại bệnh nhân thứ ba: là loại có một sự giảm khí carbonic máu. Hiện tượng tăng hô hấp thứ phát sau thiếu khí oxy máu. Tuy nhiên do có bệnh lý phổi bên dưới, nên sự tăng hô hấp không kéo theo một sự tăng PaO2 được. Bởi vậy bệnh nhân nặng dần dần, càng ngày nợ oxy càng trở nên trầm trọng.

Có 5 loại máy thở:

  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên tần số.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên thể tích.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên áp lực.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên dòng khí.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ hỗn hợp.

Chống nhiễm khuẩn

Các vi khuẩn gây bội nhiễm thường là Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenza, Stapylococcus aureus, Klebsiella pneumoniae, v.v…, nên phải cho các kháng sinh thích hợp.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Gãy xương cẳng chân kín: Triệu chứng nhận biết và những điều cần biết

Gãy xương cẳng chân kín là một chấn thương phổ biến, đặc biệt trong các trường hợp tai nạn giao thông, tai nạn lao động hoặc té ngã. Để nhận biết và xử lý kịp thời, chúng ta cần hiểu rõ các triệu chứng, nguyên nhân và biện pháp xử lý phù hợp.

Hình ảnh gãy xương cẳng chân kín

Gãy xương cẳng chân kín là gì?

Dược sĩ Cao đẳng Dược Hà Nội cho hay: Gãy xương cẳng chân kín xảy ra khi xương cẳng chân bị gãy nhưng da bên ngoài vẫn nguyên vẹn, không có vết thương hở. Hai xương chính ở cẳng chân là xương chày (tibia)xương mác (fibula), đóng vai trò hỗ trợ trọng lượng cơ thể và duy trì sự ổn định khi di chuyển.

Nguyên nhân gây gãy xương cẳng chân kín

Các nguyên nhân phổ biến bao gồm:

  1. Tai nạn giao thông: Đây là nguyên nhân hàng đầu, đặc biệt khi va chạm mạnh xảy ra ở vùng chân.
  2. Chấn thương thể thao: Các môn thể thao cường độ cao như bóng đá, bóng rổ, hoặc võ thuật thường tiềm ẩn nguy cơ.
  3. Té ngã: Người cao tuổi hoặc trẻ em thường dễ bị chấn thương do xương yếu hoặc thiếu kiểm soát khi ngã.
  4. Lực tác động trực tiếp: Đập mạnh vào cẳng chân có thể gây gãy xương.

Triệu chứng nhận biết gãy xương cẳng chân kín

Dưới đây là các dấu hiệu chính giúp nhận biết:

  1. Đau đớn dữ dội
    • Đau nhức tại vị trí gãy xương là triệu chứng đầu tiên và rõ ràng nhất.
    • Cơn đau tăng lên khi cố gắng di chuyển hoặc chạm vào khu vực bị chấn thương.
  2. Sưng nề
    • Vùng cẳng chân bị gãy thường sưng to rõ rệt do tụ máu hoặc dịch mô.
    • Sưng có thể xuất hiện ngay sau chấn thương hoặc sau vài giờ.
  3. Bầm tím
    • Xuất hiện các mảng tím hoặc xanh dưới da quanh khu vực chấn thương, do mạch máu dưới da bị tổn thương.
  4. Biến dạng
    • Có thể quan sát thấy chân bị cong hoặc lệch ở vị trí gãy.
    • Trong một số trường hợp, chân có chiều dài không đều nhau (xương gãy làm mất cấu trúc thông thường).
  5. Khó khăn hoặc không thể di chuyển
    • Người bệnh không thể đứng lên hoặc đi lại do mất ổn định ở cẳng chân.
    • Cảm giác yếu hoặc mất sức ở chân bị ảnh hưởng.
  6. Cảm giác bất thường
    • Một số người có thể cảm nhận được âm thanh lạo xạo (tiếng xương cọ xát) khi cử động nhẹ.
    • Tê bì hoặc cảm giác mất cảm giác ở chân, đặc biệt nếu dây thần kinh bị ảnh hưởng.

Chẩn đoán gãy xương cẳng chân kín

Việc chẩn đoán chính xác cần sự hỗ trợ từ bác sĩ chuyên khoa cơ xương khớp và khoa ngoại có chuyên môn, thường bao gồm:

  1. Khám lâm sàng
    • Bác sĩ kiểm tra vùng bị tổn thương, đánh giá mức độ sưng, đau và biến dạng.
  2. Chụp X-quang
    • Xác định vị trí và mức độ gãy xương.
    • Giúp bác sĩ quyết định phương pháp điều trị phù hợp.
  3. Chụp CT hoặc MRI (nếu cần)
    • Sử dụng trong các trường hợp phức tạp để đánh giá chi tiết tổn thương ở mô mềm hoặc dây thần kinh.

Biến chứng có thể gặp

Nếu không được xử lý kịp thời, gãy xương cẳng chân kín có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng:

  • Hội chứng khoang (compartment syndrome): Tăng áp lực bên trong các khoang cơ gây đau đớn và tổn thương mô.
  • Chậm liền xương: Xương không lành đúng cách, gây ảnh hưởng đến khả năng vận động.
  • Nhiễm trùng: Mặc dù da không bị tổn thương, nhưng nguy cơ nhiễm trùng bên trong vẫn tồn tại nếu không được chăm sóc đúng cách.

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng 

Cách xử lý khi nghi ngờ gãy xương cẳng chân kín

  1. Cố định chân bị gãy
    • Dùng nẹp hoặc vật dụng cứng cố định chân ở tư thế ban đầu để tránh di chuyển gây tổn thương thêm.
    • Không cố gắng nắn chỉnh xương tại nhà.
  2. Chườm lạnh
    • Đặt túi chườm lạnh lên vùng bị sưng để giảm đau và sưng.
    • Tránh để túi đá tiếp xúc trực tiếp với da.
  3. Gọi cấp cứu
    • Nếu tình trạng nghiêm trọng, cần gọi ngay xe cấp cứu hoặc đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất.
  4. Giữ chân nâng cao
    • Đặt chân bị gãy cao hơn mức tim để giảm sưng và ngăn tụ máu.

Phương pháp điều trị gãy xương cẳng chân kín

  1. Điều trị bảo tồn
    • Áp dụng trong trường hợp gãy không di lệch.
    • Bó bột hoặc đeo nẹp để giữ xương ở vị trí cố định.
  2. Phẫu thuật
    • Thực hiện khi xương gãy di lệch nhiều, gãy thành nhiều mảnh hoặc ảnh hưởng đến khớp.
    • Bác sĩ có thể sử dụng đinh, vít hoặc nẹp để giữ xương cố định.
  3. Vật lý trị liệu
    • Sau khi xương liền, người bệnh cần tập luyện phục hồi chức năng để khôi phục sức mạnh và sự linh hoạt.

Phòng ngừa gãy xương cẳng chân

  • Cẩn thận khi tham gia giao thông: Tuân thủ luật lệ và sử dụng phương tiện bảo hộ khi lái xe.
  • Tăng cường sức khỏe xương: Ăn uống đủ canxi và vitamin D, tập thể dục đều đặn để tăng cường mật độ xương.
  • Sử dụng dụng cụ bảo hộ: Đặc biệt khi chơi thể thao hoặc làm việc trong môi trường nguy hiểm.

Dược sĩ Cao đẳng Dược chia sẻ: Gãy xương cẳng chân kín là một chấn thương nghiêm trọng, đòi hỏi nhận biết và xử lý kịp thời để tránh biến chứng. Việc trang bị kiến thức về triệu chứng, cách sơ cứu và phòng ngừa không chỉ giúp bảo vệ bản thân mà còn hỗ trợ tốt hơn cho những người xung quanh khi cần thiết. Hãy luôn lắng nghe cơ thể và tìm đến sự trợ giúp y tế nếu gặp phải bất kỳ dấu hiệu nào nghi ngờ gãy xương.

Tổng hợp bởi  benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Áp Xe Phổi – Chẩn Đoán Và Điều Trị

Áp xe phổi là ổ mủ trong một vùng phổi hoại tử thành hang cấp tính hoặc mạn tính, nguyên phát hoặc thứ phát không do vi khuẩn lao. Áp xe phổi có thể 1 ổ hoặc nhiều ổ. Viêm phổi hoại tử là trường hợp có nhiều ổ áp xe nhỏ có đường kính dưới 2cm ở nhiều thuỳ phổi khác nhau.


I. Vi khuẩn học

Vi khuẩn yếm khí: Tìm thấy trong răng, lợi bị viêm có 99% vi khuẩn yếm khí. Chọc hút khí quản lấy bệnh phẩm tìm vi khuẩn yếm khí đạt 89%.

Vi khuẩn ái khí: Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus. Klebsiella pneumoniae thường gây nhiều ổ áp xe, gặp ở người nghiện rượu, thiếu hụt miễn dịch. Viêm phổi do Pseudomonas aeruginosa là viêm phổi bệnh viện. Ổ áp xe nhỏ và nhiều thì vi khuẩn thường là Streptococcus milleri.
Áp xe phổi có thể do nấm, amip, hiếm hơn là Salmonella hoặc vi khuẩn dịch hạch.

II. Lâm sàng

Bệnh nhân sốt, mệt mỏi, sút cân, thiếu máu, dấu hiệu của một viêm phổi.

Triệu chứng chủ yếu: ho, khạc đờm mủ nhiều, có thể ộc mủ, đờm và hơi thở có thể thối (60%) hoặc ho đờm lẫn máu. Sốt đôi khi có cơn rét run. Đau ngực.

Áp xe phổi mạn tính có thể có dấu hiệu ngón tay dùi trống.

Khám phổi: gõ đục, nghe phổi nhiều ran ẩm có thể có tiếng cọ màng phổi, có thể thấy tiếng thổi ống, thổi hang nếu ổ áp xe phổi lớn. Nếu có biến chứng tràn mủ màng phổi thì có dấu hiệu tràn dịch màng phổi hoặc tràn dịch- tràn khí màng phổi.

III. Cận lâm sàng

X quang phổi chuẩn

  • Mới đầu có hình ảnh khí-nước trong đám đông đặc.
  • Thông thường áp xe phổi có một thành dầy trong lòng áp xe có mực nước ngang. Áp xe thường có đường kính 4-6 cm. Có khi có nhiều ổ áp xe với nhiều mực nước khác nhau.
  • Cần chụp phim nghiêng để xác định vị trí trước sau của ổ áp xe và phân biệt túi mủ màng phổi với ổ áp xe lớn ở ngoại vi. Nếu là túi mủ màng phổi thì mức nước ngang trên phim thẳng ngắn hơn mức nước ngang trên phim nghiêng, còn nếu là ổ áp xe lớn ở ngoại vi thì mức nước ngang trên phim thẳng và phim nghiêng bằng nhau.

Chụp cắt lớp vi tính

  • Chụp cắt lớp vi tính ngực cho phép xác định rõ vị trí, số lượng ổ áp xe phổi. Các hình ảnh tổn thương có thể gặp bao gồm
  • Hình mức nước – hơi, với thành dày. Trên phim chụp cho phép xác định chính xác đường kính ổ áp xe.
    Xác định chẩn đoán ổ áp xe phổi nhỏ không thấy trên phim chụp phổi thẳng, nghiêng.
  • Tình trạng nhu mô phổi, màng phổi xung quanh ổ áp xe: tổn thương như mô phổi, tràn dịch màng phổi kèm theo…

Bệnh phẩm làm chẩn đoán xác định vi khuẩn học

  • Lấy đờm, mủ của bệnh nhân khạc ra.
  • Chọc hút mủ ổ áp xe qua thành ngực; chọc hút dịch màng phổi hoặc mủ mảng phổi.
  • Soi phế quản ống mềm lấy bệnh phẩm (đờm mủ) và còn để tìm tổn thương kết hợp.
  • Cấy máu.

Xét nghiệm khác: Theo giảng viên Cao đẳng Xét nghiệm Hà Nội các xét nghiệm khác cần làm như sau

  • Công thức máu: bạch cầu tăng cao (trên 15000) tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao.
  • Tốc độ máu lắng tăng cao.
  • Nếu nghĩ đến nhiễm trùng huyết thì có thể cấy máu
  • Nếu nghĩ đến áp xe phổi do amíp thì làm phản ứng miễn dịch huỳnh quang để tìm kháng thể kháng Entamoeba histolitica và làm thêm siêu âm gan để tìm ổ áp xe gan do amíp.

IV. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng: khởi đầu đột ngột và có các triệu chứng sốt, ho, khạc đờm mủ, ộc mủ, đờm và hơi thở thối. Khám thực thể có hội chứng đông đặc phổi, hội chứng hang, hoặc chỉ nghe thấy ran ẩm, nổ.

Chụp X quang phổi: hình ổ áp xe với thành dày. Có thể thấy hình tràn dịch màng phổi.

Công thức máu có bạch cầu tăng, máu lắng tăng.

Chẩn đoán phân biệt

Ung thư phổi áp xe hoá: hình hang thành dầy bên trong lồi lõm mấp mô, xung quanh có hình tua gai ít khi có mức nước ngang

Kén hơi phổi bội nhiễm: có hội chứng nhiễm khuẩn khạc mủ, XQ có hình ảnh mức nước hơi một hoặc hai bên phổi. Sau khi điều trị hết nhiễm khuẩn hình kén hơi vẫn còn

Giãn phế quản hình túi cục bộ: bệnh nhân có tiền sử ho khạc đờm nhiều, lâu ngày, hoặc ho ra máu, nghe phổi có ran ẩm tồn tại lâu . Hình ảnh XQ phổi có nhiều ổ sáng hình mờ không đều

Phân biệt áp xe phổi với hang lao: Về lâm sàng lao phổi tiến triển từ từ có sốt về chiều, ho khạc đờm, ho ra máu, gầy sút cân, khó thở. Về XQ, lao thường ở thuỳ trên, có thể ở hai bên phổi, đường kính của hang từ 2-4 cm ít khi lớn hơn. Dạng hang hình trái xoan, méo mó xung quanh có hình thâm nhiễm, có tổn thương xơ, vòm hoành bị co kéo. Ngoài tổn thương hang thường có các nốt thâm nhiễm phối hợp. Về xét nghiệm: có BK(+) trong đờm, phản ứng Mantoux(+). Bạch cầu trong máu ngoại vi không cao. Điều trị bằng thuốc chống lao thấy lâm sàng tiến triển tốt, bệnh nhân tăng cân.

V. Điều trị áp xe phổi

1. Điều trị nội khoa

Kháng sinh

Nguyên tắc: Cần dùng kháng sinh sớm, theo đường tĩnh mạch, liều cao ngay từ đầu, ngay sau khi lấy được bệnh phẩm để chẩn đoán vi sinh vật. Dùng ít nhất từ 2 kháng sinh trở lên. Thay đổi kháng sinh dựa theo diễn biến lâm sàng và kháng sinh đồ nếu có. Thời gian dùng kháng sinh ít nhất 4 tuần.
Các loại kháng sinh có thể dùng như sau:Penicillin G: 10 – 20, có thể tới 50 triệu đơn vị/ ngày tuỳ theo tình trạng bệnh nhân, pha truyền tĩnh mạch chia 3- 4 lần /ngày, kết hợp với 1 kháng sinh nhóm aminoglycoside:

Gentamycin 3-5mg/kg/ngày tiêm bắp 1 lần hoặc amikacin 15mg/kg/ngày tiêm bắp 1 lần hoặc tobramycin

Nếu nghi vi khuẩn tiết beta lactamase thì thay Penicillin G bằng amoxicillin + acid clavunalic (Augmentin) hoặc Ampicillin + Sulbactam, liều dùng 3-6 g/ngày.

Nếu nghi ngờ áp xe phổi do vi khuẩn Gram âm thì dùng cephalosporin thế hệ 3 như cefotaxime 4-6 g/ngày, ceftazidime 3-4 g/ngày, kết hợp với kháng sinh nhóm aminoglycoside nêu trên với liều tương tự.

Nếu nghi ngờ áp xe phổi do vi khuẩn yếm khí thì kết hợp nhóm beta lactame+ acid clavunalic với metronidazole 1000-1500 mg/ngày, truyền tĩnh mạch chia 2-3 lần /ngày, hoặc penicillin G 20 – 50 triệu đơn vị kết hợp metronidazole 1000 – 1500 mg/ngày truyền tĩnh mạch, hoặc hoặc penicillin G 20 – 50 triệu đơn vị kết hợp clindamycin 1800mg/ngày tiêm tĩnh mạch.

Nếu nghi ngờ áp xe phổi do tụ cầu: oxacillin (Bristopen) 6 – 12g/ngày hoặc vancomycin 1-2g/ngày, kết hợp với amikacin khi nghi do tụ cầu kháng thuốc.

Nếu áp xe phổi do a míp thì dùng metronidazole 1000-1500 mg/ngày, truyền tĩnh mạch chia 2-3 lần /ngày.

Dẫn lưu ổ áp xe

Dẫn lưu tư thế, vỗ rung lồng ngực: Dựa vào phim chụp X quang phổi thẳng nghiêng chọn tư thế bệnh nhân để dẫn lưu tư thế, vỗ rung lồng ngực. Dẫn lưu tư thế nhiều lần /ngày, để BN ở tư thế sao cho dẫn lưu tốt nhất ổ áp xe, lúc đầu trong thời gian ngắn vài phút, sau kéo dài dần thời gian và kết hợp với vỗ rung. Vỗ rung mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần lúc đầu 5 phút sau tăng dần đến10- 20 phút.

Có thể dùng soi phế quản ống mềm để hút mủ ở phế quản dẫn lưu ổ áp xe. Soi phế quản ống mềm còn giúp phát hiện các tổn thương tắc nghẽn phế quản và gắp bỏ dị vật phế quản nếu có.

Chọc dẫn lưu mủ qua da: áp dụng đối với những ổ áp xe phổi ở ngoại vi, ổ áp xe không thông với phế quản; ổ áp xe ở sát thành ngực hoặc dính với màng phổi. Sử dụng ống thông cỡ 7-14F, đặt vào ổ áp xe để hút dẫn lưu mủ qua hệ thống hút liên tục.

2. Các điều trị khác

  • Đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân.
  • Đảm bảo cân bằng nước điện giải, thăng bằng kiềm toan.
  • Giảm đau, hạ sốt.

3. Điều trị phẫu thuật

Chỉ định mổ cắt phân thuỳ phổi hoặc cả 1 bên phổi tuỳ theo mức độ lan rộng cho những trường hợp giãn phế quản khu trú một bên phổi với chức năng hô hấp cho phép:

Ổ áp xe > 10cm.

Áp xe phổi mạn tính: các triệu chứng (sốt, ho khạc đờm mủ, có thể ho máu, bạch cầu tăng) tồn tại dai dẳng. Dẫn lưu mủ qua đường phế quản hoặc chọc dẫn lưu mủ qua da kết hợp dùng kháng sinh không đạt kết quả.

Áp xe phổi mạn tính

  • Ho ra máu tái phát, nặng.
  • Áp xe phối hợp với giãn phế quản khu trú nặng.
  • Ung thư phổi ápxe hóa (chỉ định mổ ung thư).
  • Có biến chứng dò phế quản – khoang màng phổi.

VI. Tiến triển và tiên lượng

Tiến triển

Nếu điều trị có hiệu quả thì sốt giảm xuống từ từ, các dấu hiệu lâm sàng và xquang sẽ xoá dần. Nếu mủ không được dẫn lưu tốt thì ít khi sốt dưới hai tuần lễ. Khoảng 50% áp xe phổi bình phục sau 4 tuần, số còn lại sau 6-8 tuần. Hội chứng đông đặc còn tồn tại 3 tháng sẽ xoá hết nếu được điều trị khỏi. Sau 3 tháng không khỏi thì trở thành áp xe mạn tính

Tiên lượng

Tỉ lệ tử vong do áp xe phổi từ 5-15%

Tiên lượng xấu khi:

  • Kích thước ổ áp xe trên 6cm. Có nhiều ổ áp xe.
  • Bệnh nhân đến khám muộn sau 8 tuần.
  • Ngưòi già, người suy kiệt, giảm miễn dịch.
  • Áp xe do tụ cầu vàng hoặc do vi khuẩn Gr âm (Klebsiella Pneumonia, Pseudomonas Aeruginosa).
  • Áp xe phổi do vi khuẩn kháng thuốc.
  • Áp xe phổi không có đường dẫn lưu tự nhiên.
  • Áp xe phổi vỡ vào khoang màng phổi, trung thất.

Biến chứng

  • Gây mủ màng phổi
  • Ho ra máu
  • Có trường hợp điều trị bằng kháng sinh, ổ áp xe hết vi khuẩn nhưng có thể tồn tại một hang dưói dạng bong bóng, nó có thể nhiễm khuẩn trở lại hoặc phát triển nấm Aspergilus Fumigatus ở trong lòng hang để tạo nên một u nấm.
  • Khi áp xe nguyên phát thông với một phế quản nhỏ, thành phế quản bị phá huỷ, tạo nên giãn phế quản hình túi.
  • Vi khuẩn đi theo đường tĩnh mạch gây áp xe não nay rất hiếm gặp.
  • Thoái hoá bột.

VII. Phòng bệnh

  • Vệ sinh răng miệng, mũi, họng.
  • Điều trị tốt các nhiễm khuẩn răng, hàm, mặt, tai, mũi, họng, nhất là các thủ thuật ở các vùng này phải tránh các mảnh tổ chức rơi vào đường phế quản.
  • Khi cho bệnh nhân ăn bằng sông phải theo dõi chặt chẽ, tránh không để sặc thức ăn.
  • Phòng ngừa sặc các dị vật vào đường thở

 Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Exit mobile version