Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Cùng chuyên gia tìm hiểu thoát vị đĩa đệm mất nước là gì?

Không đơn thuần là thoát vị đĩa đệm mà còn là thoát vị đĩa điệm mất nước, nhưng thực chất thoát vị đĩa đệm mất nước là gì thì không phải ai cũng biết.

Cùng chuyên gia tìm hiểu thoát vị đĩa đệm mất nước là gì?

Thoát vị đĩa đệm mất nước là gì?

Thoát vị đĩa đệm mất nước hay còn được gọi là thoát vị đĩa đệm thoái hóa, trong khi đó tình trạng đĩa đệm tại cột sống bị thoái hóa và vỡ ra gây ra những tổn thương tại xương khớp. Trong các nghiên cứu, thoát vị đĩa đệm thường xuyên gặp ở những đối tượng người cao tuổi, người thường xuyên làm công việc nặng nhọc, nâng, vác nhiều hay dân văn phòng ngồi trong một tư thế quá lâu.

Đa phần những tổn thương do bệnh thoát vị đĩa đệm mất nước thường đáng kể khi có tới 65% bệnh nhân mắc bệnh này chung sống với bệnh một cách hòa bình mà không cần điều trị. Ngược lại đối với những trường hợp nặng thì bệnh tiến triển nặng hơn và cần đến những phương pháp điều trị tích cực.

Những triệu chứng mà bệnh thoát vị đĩa đệm mất nước có thể kể đến như những cơn đau nhức xương khớp buốt tại vùng thoát vị đĩa đệm, đau tê lan xuống vùng mông chân tay do dây thần kinh cảm giác bị chèn ép. Trong trường hợp nặng thì thoát vị đĩa đệm mất nước còn gây đau cột sống, đau rễ thần kinh ảnh hưởng nghiêm trọng tới vận động.

Bệnh đau theo cơn kéo dài khoảng 1-2 tuần thì thuyên giảm, mức độ nặng nhẹ của bệnh phụ thuộc vào mức độ lệch của đĩa đệm. Nếu không kịp thời điều trị, đặc biệt trong trường hợp nặng không chỉ thoát vị đĩa đệm mất nước mà các bệnh cơ xương khớp liên quan có thể dẫn đến trường hợp teo cơ, teo chi, thậm chí là bại liệt.

Biện pháp phòng ngừa bệnh thoát vị đĩa đệm mất nước là gì ?

Phát hiện và điều trị thoát vị đĩa đệm mất nước hay các bệnh cơ xương khớp khi bệnh đang ở giai đoạn sớm là yếu tố quan trọng giúp người bệnh nhanh chóng hồi phục. Đặc biệt tuân thủ những chỉ định trong điều trị của bác sĩ là mấu chốt giúp người bệnh giảm những tổn thương do thoát vị đĩa đệm gây ra và góp phần tích cực trong việc phục hồi sức khỏe.

Đặc biệt cần áp dụng chế độ sinh hoạt, ăn uống khoa học theo lời khuyên của các chuyên dinh dưỡng. Đặc biệt đối với những phụ nữ mang thai cần đảm bảo bổ sung các khoáng chất như canxi, acid folic, vitamin D theo chỉ dẫn của bác sĩ sản khoa. Trẻ sơ sinh cần được uống sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục đến 24 tháng để góp phần đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ nhỏ.

Bên cạnh đó, không chỉ những người cao tuổi mà trẻ em cũng cần được rèn luyện tư thế làm việc, học tập đúng, tránh chấn thương, tai nạn, mang vác vật nặng, làm việc quá sức, cần uống nhiều sữa, tắm nắng 30 phút mỗi ngày để xương luôn trong trạng thái chắc khỏe, phòng ngừa các bệnh cơ xương khớp nói chung và bệnh thoát vị đĩa đệm nói riêng.

Bệnh thoát vị đĩa đệm mất nước mặc dù không để lại nhiều hệ lụy nghiêm trọng như các căn bệnh nguy hiểm khác, nhưng chúng là nguyên nhân khiến bạn đau nhức, hạn chế vận động và ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống. Theo đó, để có cơ thể khỏe mạnh thì mỗi người cần tự biết chăm sóc bản thân và chú ý khám sức khỏe định kỳ để sớm phát hiện và điều trị bệnh tốt nhất.

Nguồn: Bệnh học

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Hướng Dẫn Bù Nước Cho Trẻ Em Tiêu Chảy

Các bậc cha mẹ lưu ý không bao giờ cho thuốc cầm tiêu chảy hay thuốc chống nôn cho trẻ. Việc này không những giúp cho việc điều trị tiêu chảy mà một số thuốc này lại rất nguy hiểm.

Các thuốc nguy hiểm bao gổm thuốc giảm nhu động ruột (như codeine, dẫn xuất á phiệt, diphenoxylate, loperamide), hay thuốc điều trị nôn (như métoclopra mide)

Khám trẻ bị tiêu chảy, cách phân loại mất nước và chọn một trong các phác đổ điều trị sau:

  • Phác đổ A – Điều trị tiêu chảy tại nhà
  • Phác đổ B – Điều trị mất nước với ORS
  • Phác đổ C – Điều trị nhanh chóng mất nước nặng

Cả 3 phác đổ điều trị được mô tả trong phác đổ điều trị trẻ bệnh. Các phác đổ hướng dẫn bù nước nhằm thay thế nước và muối bị mất trong tiêu chảy. Một cách hoàn hảo để bù nước và chống mất nước cho trẻ là dùng dung dịch ORS. Truyền dịch tĩnh mạch chỉ dùng trong trường hợp mất nước nạng.

Kháng sinh không hiệu quả trong điều trị hầu hết các trường hợp tiêu chảy. Sử dụng kháng sinh khi không cần thiết có thể làm tăng sự đề kháng của vài chủng vi khuẩn gây bệnh. Ngoài ra, kháng sinh lại đắt tiền. Sẽ lãng phí tiền bạc cho điều trị không hữu hiệu. Do đó, không cho kháng sinh thường quy. Chỉ cho kháng sinh trong trường hợp mất nước nặng do tả hoặc bị lỵ.

I. Phác đổ A: Điều trị tiêu chảy tại nhà

Điều trị trẻ bị tiêu chảy không mất nước với phác đổ A. Ba nguyên tắc điều trị tiêu chảy tại nhà là:

  • Uống thêm dịch (uống theo nhu cầu trẻ).
  • Tiếp tục cho ăn.
  • Khi nào đưa trẻ đến khám ngay.

Trẻ bị tiêu chảy không mất nước sẽ được điều trị với phác đổ A. Trẻ có mất nước hoặc mất nước nặng cần được bù dịch theo phác đổ B hoặc C, và sau đó tiếp tục phác đổ A.

Phác đổ A liên quan việc tham vấn cho bà mẹ hoặc người nuôi dưỡng trẻ về 3 nguyên tắc điều trị tại nhà. Do đó, kỹ năng hướng dẫn và tham vấn của bạn rất quan trọng với Phác đổ A.

Nguyên tắc 1: Uống thêm dịch

Khuyên bà mẹ:

Cho dịch theo nhu cầu trẻ. Mục đích của việc cho thêm dịch là thay thế dịch mất trong tiêu chảy và do đó phòng ngừa mất nước. Điều quan trọng là cho nhiều dịch hơn bình thường ngay khi tiêu chảy bắt đầu.

Khuyên bà mẹ cho trẻ bú thường xuyên và mỗi lần cho bú lâu hơn. Đổng thời có thể cho trẻ uống thêm những loại dịch khác. ORS chỉ là một trong nhiều loại dịch được khuyên dùng tại nhà đề phòng mất nước.

Nếu trẻ được bú mẹ hoàn toàn, điều quan trọng là cho trẻ tiếp tục bú mẹ thường xuyên hơn bình thường. Cũng như cho uống ORS hoặc nước sạch. Trẻ bú mẹ dưới 4 tháng tuổi trước hết nên cho bú mẹ rổi mới cho uống ORS.

Nếu trẻ bú mẹ không hoàn toàn, cho thêm một hay nhiều loại dịch sau:

  • Dung dịch ORS.
  • Dịch có nguồn gốc thức ăn: nước canh, nước cháo, nước rau quả.
  • Nước sạch.

Trong hầu hết mọi trường hợp, trẻ không bị mất nước, thật sự không cần dung dịch ORS. Cho trẻ thêm dung dịch có nguồn gốc thức ăn như súp, nước cơm hay sữa chua, và nước sạch (thường được cho kèm với thức ăn). Ở địa phương bạn, chương trình quốc gia kiểm soát bệnh tiêu chảy có thể đã xác định nhiều loại dung dịch có nguồn gốc từ thức ăn để dùng tại nhà.

Phác đồ A liệt kê 2 tình huống trong đó người mẹ nên cho dung dịch ORS tại nhà:

  • Trẻ đã được điều trị theo phấc đổ B hay C trong lần khám này:

Nói cách khác, trẻ vừa được bù nước xong. Đối với trẻ này, uống dung dịch ORS sẽ ngừa mất nước trở lại.

  • Trẻ không thể trở lại cơ sở y tế:

Ví dụ, nhà ở xa hay bà mẹ có công việc không thể bỏ.

Hướng dẫn bà mẹ cách pha và cho uống ORS. Cho 2 gói ORS dùng tại nhà.

Khi cho bà mẹ ORS, hãy chỉ bà mẹ cách pha dung dịch ORS và cách cho trẻ uống. Hãy yêu cầu bà mẹ tự thực hành và quan sát bà mẹ.

Các bước pha dung dịch ORS là:

  • Rửa sạch tay bằng xà phòng và nước sạch.
  • Cho tất cả bột trong một gói ORS vào trong 1 bình sạch. Hãy dùng bất kỳ dụng cụ nào có sẩn như lọ, tô hay chai chứa được 1 lít nước.
  • Đong 1 lít nước sạch (hay một lượng chính xác cho số gói ORS dùng). Tốt nhất là nước đun sôi để nguội, nhưng nếu không có, hãy dùng nước uống sạch nhất có thể được.
  • Cho vào bình chứa. Khuấy đều cho tới khi bột ORS được hoà tan hoàn toàn.
  • Nếm dung dịch này để biết dung dịch có vị ra sao.

Hãy giải thích cho bà mẹ rằng nên pha dung dịch ORS mới mỗi ngày trong một bình sạch, đậy nắp bình và đổ bỏ tất cả lượng dung dịch còn thừa từ hôm trước.

Hãy cho bà mẹ 2 gói ORS để dùng tại nhà (2 gói ORS loại 1 gói pha trong một lít nước hoặc tương đương).

Hướng dẫn bà mẹ lượng dịch được cho kèm theo dịch uống thường lê.

Giải thích cho bà mẹ nên uống lượng dịch thường lệ mỗi ngày và lượng dịch thêm. Hướng dẫn cho bà mẹ lượng dịch cho trẻ uống thêm sau mỗi lần đi tiêu:

  • Trẻ dưới 2 tuổi: 50-100ml sau mỗi lần đi tiêu phân lỏng.
  • 2 tuổi trở lên: 100-200ml sau mỗi lần đi tiêu phân lỏng.

Giải thích cho bà mẹ rằng tiêu chảy sẽ tự giới hạn. ORS sẽ không làm ngưng tiêu chảy. Lợi ích của ORS là nó thay thế dịch và muối mà trẻ mất trong tiêu chảy và hạn chế trẻ bị nặng hơn. Nói với bà mẹ rằng:

  • Cho trẻ uống thường xuyên từng ngụm nhỏ bằng cốc hay thìa.
  • Dùng thìa đút nước cho trẻ.
  • Nếu trẻ nôn, chờ 10 phút mới cho uống tiếp, nhưng cho cũng chậm hơn.
  • Tiếp tục bù dịch cho đến khi hết tiêu chảy.
  • Dùng phiếu bà mẹ và kiểm tra sự hiểu biết của bà mẹ.

Một vài cơ sở có phiếu bà mẹ dán tại chỗ hoặc đưa cho bà mẹ cầm về nhà. Phiếu bà mẹ giúp bà mẹ nhớ các thông tin quan trọng, bao gồm loại dịch và thức ăn gì cho trẻ. Phiếu bà mẹ mẫu nằm ở phần Phụ lục D. Chỉ ra loại dung dịch và mẹ cần cho trẻ, dùng phần “dung dịch” trong phiếu.

Nếu bạn cho trẻ uống ORS, xem và đánh dấu vào ô ORS.

Nếu trẻ không bú mẹ, xem và đánh dấu vào ô dịch thức ăn. Trẻ bú mẹ hoàn toàn không nên cho thêm dịch thức ăn như súp, nước cơm, hay sữa chua.

Xem và đánh dấu vào ô “nước sạch”. Trẻ bú mẹ hoàn toàn nên cho bú thường xuyên hơn và có thể uống nước sạch hay dung dịch ORS.

Trước khi bà mẹ về, kiểm tra lại sự hiểu biết của bà mẹ về cách bù nước theo phác đổ A. Sử dụng các câu hỏi sau:

  • Chị sẽ cho bé uống loại dịch nào?
  • Chị sẽ cho trẻ uống bao nhiêu dịch?
  • Chị cho trẻ uống ORS như thế nào?
  • Chị cần bao nhiêu nước để pha 1 gói ORS?
  • Chị cho trẻ uống ORS bằng cách nào?
  • Chị sẽ làm gì nếu trẻ nôn?

Hãy hỏi xem bà mẹ có gặp khó khăn gì khi bà cho trẻ uống ORS. Thí dụ bà mẹ nói rằng bà không có thời gian, hãy giúp bà cách hướng dẫn cho một người khác cho trẻ uống. Nếu bà mẹ nói bà không có bình đựng 1 lít để pha ORS, hãy chỉ cho bà mẹ cách lường 1 lít trong một vật chứa nhỏ hơn. Hoặc, hãy chỉ cho bà mẹ cách lường một lít trong vật chứa lớn hơn và đánh dấu nơi thích hợp.

Nguyên tắc 2: Tiếp tục cho ăn

Bạn sẽ học cách hướng dẫn bà mẹ về việc cho ăn ở chư ơng 29. Nếu một trẻ được phân loại là tiêu chảy kéo dài, bạn sẽ hướng dẫn cho bà mẹ một số chế độ ăn đặc biệt.

Nguyên tắc 3: Khi nào cần đưa trẻ đến khám ngay

Hướng dẫn cho bà mẹ các dấu hiệu cần đưa trẻ để khám ngay là:

  • Không thể uống hoặc bú
  • Bệnh nặng hơn
  • Có sốt hoặc sốt cao

Nếu trẻ bị tiêu chảy, hướng dẫn cho bà mẹ mang trẻ khám lại ngay nếu:

  • Có máu trong phân
  • Trẻ rất khát.

II. Phác đổ B: Điều trị mất nước bằng ORS

Điều trị trẻ bị tiêu chảy và mất nước theo phác đổ B. Phác đổ này bao gổm giai đoạn điều trị ban đầu 4 giờ tại cơ sở y tế. Trong 4 giờ, bà mẹ cho trẻ uóng từ từ một lượng dịch ORS định sẩn bằng thìa hay từng ngụm.

Một trẻ có phân loại nặng và có mất nước cần chuyển nhanh đi bệnh viện. Không thử cho bù nước trước khi cho trẻ đi. Nhanh chóng cho bà mẹ vài gói ORS. Chỉ cho bà mẹ cách cho trẻ uống ORS như thế nào trên đường đi bệnh viện. Một ngoại lệ là trẻ có phân loại nặng của tiêu chảy kéo dài nặng thì trước hết nên bù nước cho trẻ này rổi với chuyển đi.

Nếu trẻ bị mất nước cần điều trị các vấn đề khác, bạn nên điều trị mất nước trước. Rổi mới điều trị các vấn đề khác.

Sau khi cho ORS 4 giờ, khám lại và phân loại trẻ bị mất nước bằng cách sử dụng phác đổ đánh giá và phân loại. Nếu không còn dấu hiệu mất nước, trẻ sẽ được điều trị theo phác đổ A. Nếu vẫn còn có mất nước, lặp lại phác đổ B. Nếu lúc này trẻ có dấu hiệu mất nước nặng, trẻ phải được điều trị theo phác đổ C.

Xác định lượng ORS cho uống trong 4 giờ đầu.

Tham khảo phác đổ điều trị trẻ bệnh và sử dụng bảng ở phác đổ B nhằm xác định lượng ORS cho trẻ uống. Xem cân nặng trẻ (hoặc tuổi nếu không biết cân nặng) để tìm lượng dung dịch ORS cần. Ví dụ: trẻ 5kg sẽ cần 200 -400ml dung dịch ORS trong 4 giờ đầu tiên.

Liều lượng được ghi trên bảng hướng dẫn. Tuổi hay cân nặng của trẻ, độ mất nước và lượng phân mất trong khi bù nước, tất cả sẽ ảnh hưởng đến lượng ORS cần thiết. Trẻ thường sẽ uống nhiều dung dịch ORS hơn trẻ cần. Hãy cho trẻ uống theo nhu cầu của trẻ.

Cách khác để ước tính lượng dịch ORS cần thiết (bằng ml) được mô tả trong bảng. Nhân trọng lượng trẻ (bằng kg) với 75ml. Ví dụ, một trẻ 8kg cần:

8kg x 75ml = 600ml dịch ORS trong 4 giờ

Lượng dịch ORS không có liên quan đến chế độ ăn bình thường của trẻ bú mẹ. Bà mẹ nên cho trẻ bú mẹ khi trẻ đòi uống rồi uống tiếp dung dịch ORS. Một trẻ dưới 6 tháng không bú mẹ, bà mẹ nên cho 100-200ml nước sạch trong suốt 4 giờ kèm theo lượng dịch ORS. Sữa mẹ và nước sẽ giúp ngừa tăng natri máu.

Hướng dẫn bà mẹ cách cho uống dịch ORS

Tìm một chỗ thoải mái trong trạm y tế cho bà mẹ ngồi với trẻ. Hướng dẫn bà mẹ cần cho trẻ uống bao nhiêu lượng dịch ORS trong 4 giờ. Hướng dẫn cho bà mẹ đơn vị đo lường được dùng ở địa phương. Nếu trẻ dưới 2 tuổi, hướng dẫn cho bà mẹ cách cho trẻ uống bằng thìa thường xuyên. Nếu trẻ lớn hơn, hướng dẫn cho bà mẹ cách cho trẻ uống bằng cốc. Ngồi với bà mẹ khi bà cho trẻ uống vào ngụm dung dịch đầu tiên từ cốc hay thìa. Hỏi xem bà mẹ có thắc mắc nào không.

Nếu trẻ nôn, bà mẹ có thể chờ khoảng 10 phút trước khi cho uống thêm dung dịch ORS. Sau đó nên cho uống chậm hơn.

  • Khuyến khích bà mẹ cho bú mẹ khi trẻ đòi uống. Khi trẻ bú mẹ xong, tiếp tục cho uống dung dịch ORS. Bà mẹ không nên cho trẻ ăn trong suốt 4 giờ đầu tiên điều trị bằng ORS.
  • Hướng dẫn cho bà mẹ nơi bà mẹ thay tã cho trẻ, trẻ có thể dùng cầu tiêu hay bô. Hướng dẫn nơi rửa tay cho bà mẹ và trẻ.
  • Thỉnh thoảng kiểm tra lại xem bà mẹ có thắc mắc gì không. Nếu trẻ không uống được dung dịch ORS, thử dùng cách cho khác. Bạn có thể sử dụng đồ nhỏ giọt hay một ống tiêm không kim.

Trong khi bà mẹ cho uống ORS tại cơ sở y tế suốt 4 giờ, bạn có nhiều thời gian để hướng dẫn cách chăm sóc trẻ. Tuy nhiên, vấn đề lưu tấm trước nhất vẫn là bù nước cho trẻ. Khi trẻ đã dần phục hồi, bà mẹ có thể chú ý để đọc hơn. Hướng dẫn bà mẹ cách pha và cho uống dịch ORS và về phác đồ A. Một ý tưởng hay là nên có tài liêu in để bà mẹ có thể đọc trong khi bà mẹ ngồi với trẻ. Thông tin này cũng có thể được củng cố thêm bởi tranh ảnh trên tường.

Sau 4 giờ điều trị theo phác đồ B, sử dụng phác đồ đánh giá và phân loại để khám lại trẻ. Phân loại độ mất nước. Chọn phác đồ thích hợp để tiếp tục điều trị.

Ghi chú: Khám lại trẻ trước 4 giờ nếu trẻ không uống ORS hay bệnh diễn biến nặng hơn.

Nếu trẻ cải thiên và không mất nước, chọn phác đồ A. Hướng dẫn bà mẹ phác đồ A, nếu bạn chưa hướng dẫn trong 4 giờ qua. Trước khi bà mẹ rời cơ sở y tế, hỏi các câu hỏi kiểm tra. Giúp bà mẹ giải quyết bất kỳ thắc mắc nào khi bà mẹ cho trẻ bù nước tại nhà.

Ghi chú: Nếu mặt trẻ bị phù, là dấu hiệu quá tải nước. Đây không phải là dấu hiệu nguy hiểm hay là dấu hiệu tăng natri máu. Đây đơn giản chỉ là dấu hiệu trẻ dã được bù nước và không cần dịch ORS tại thời điểm này. Trẻ nên được cho uống nước sạch và sữa mẹ. Bà mẹ nên cho ORS theo phác đồ A khi trẻ hết phù.

Nếu trẻ vẫn còn có mất nước, chọn lại phác đồ B. Bắt đầu cho trẻ bú tại cơ sở y tế. Cho thức ăn, sữa hay nước trái cây. Sau khi cho trẻ bú, lập lại điều trị phác đồ B 4 giờ. Cho thức ăn, sữa hay nước trái cây 3 đến 4 giờ một lần. Trẻ bú mẹ nên được cho bú mẹ thường xuyên. Nếu cơ sở y tế đóng cửa trước khi bạn hoàn tất điều trị, hướng dẫn bà mẹ tiếp tục điều trị tại nhà.

Nếu trẻ xấu hơn và hiện tại có mất nước nặng, bạn sẽ cần bắt đầu phác đổ C.

Nếu bà mẹ phải rời cơ sở t tế trước khi hoàn tất điều trị.

Đôi khi bà mẹ phải rời cơ sở chữa bệnh khi trẻ còn ở phác đổ B, nghĩa là trước khi trẻ bù nước đủ. Trong các trường hợp này, bạn có thể cần:

  • Hướng dẫn bà mẹ cách chuẩn bị dịch ORS tại nhà. Cho bà mẹ thực tập trước khi ra về.
  • Hướng dẫn cho bà mẹ bao nhiêu lượng ORS cần dùng nhằm hoàn tất 4 giờ điều trị tại nhà.
  • Phát cho bà mẹ đủ các gói ORS cần để bù nước. Cũng như cho thêm 2 gói như đã yêu cầu ở phác đổ A.
  • Giải thích 3 nguyên tắc điều trị tại nhà: 1. Bù nước, 2. Tiếp tục cho ăn và 3. Khi nào khám lại (tham khảo phần hướng dẫn ở phác đổ A).

III. Phác đổ C: Điều trị nhanh mất nước nặng

Trẻ bị mất nước nặng cần được bù muối và nước nhanh chóng. Tiêm truyền tĩnh mạch thường được dùng cho mục đích này. Liêu pháp bù nước bằng tiêm truyền tĩnh mạch hoặc cho uống qua ống thông mũi dạ dày được chỉ định khi trẻ mất nước nặng. Điều trị trẻ mất nước nặng tuỳ thuộc:

  • Các thiết bị sẩn có tại cơ sở y tế của bạn hoặc tại cơ sở gần nhất hoặc tại bệnh viện.
  • Kỹ năng của bạn.
  • Trẻ có thể uống được không.

Nhằm xác định việc điều trị như thế nào, bạn cần học phác đổ C, tham khảo biểu đổ trong phác đổ điều trị trẻ và phần phụ lục A.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng có những kiểu đau như nào ?

Khi đến độ tuổi từ 25 đến 45 tuổi cột sống bắt đầu thoái hóa ở nhiều mức độ khác nhau, gây ra những cơn đau nhức khác nhau, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống.


Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng có những kiểu đau như nào ?

Cấu tạo của đĩa đệm cột sống thắt lưng là gì ?

Cột sống gồm có 7 đốt sống cổ, 12 đốt sống lưng, 5 đốt sống thắt lưng, 5 đốt sống cùng và 3 đến 5 đốt sống cùng cụt dính chặt vào nhau giữa hai thân đốt sống được nối với nhau bằng một đĩa đệm và hệ thống dây chằng vững chắc. Trong khi đó đĩa đệm được cấu tạo từ ba phần khác nhau bao gồm: nhân nhầy, vòng sợi sụn và các bản trong suốt được cấu tạo đặc biệt khi rất dẻo và có độ chun giãn rất cao ôm lấy nhau. Như vậy, cấu tạo của đĩa đệm cột sống thắt lưng khá phức tạp nhưng cũng vô cùng đặc biệt.

Theo các chuyên gia Điều dưỡng đến từ Cao đẳng Y Dược – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur cho biết: Nhờ cấu tạo đặc biệt như vậy nên khi có một lực nén, xoắn, vặn tác động lên thân đốt sống đĩa đệm phân tán lực đều khắp mặt đĩa đệm và triệt tiêu nó. Mô của đĩa đệm luôn là phần chịu trọng tải và nhiều lực lớn phức hợp tác động lên, tuy nhiên đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tính trạng thoái hóa của đĩa đệm cột sống thắt lưng diễn ra nhanh hơn dưới tác động của những nguyên nhân gây bệnh.

Cột sống có tính chịu lực cao, dẻo và vận động về mọi hướng. Dây chằng cột sống có dây chằng dọc trước, dây chằng dọc sau và dây chằng vàng, dây chăng liên gai và ngang gai. Sụn đĩa đệm được nuôi dưỡng bằng dịch khớp thông qua quá trình thẩm thấu. Khi thần kinh và mạch máu hoạt động không ổn định, đĩa đệm sẽ trở nên nghèo nàn và bị thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là điều khó tránh khỏi.


Năm 2019 điều kiện xét tuyển Cao đẳng Điều dưỡng có khó không ?

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng gây đau như thế nào?

Thoát vị đĩa đệm hoặc phình đĩa đệm thường gây đau ở vùng thắt lưng do hội chứng chèn ép rễ thần kinh gây đau ra vùng mông xuống chân. Đau thần kinh tọa biểu hiện bằng đau thắt lưng, dọc theo mặt sau đùi, mặt bên cẳng chân lan tới gót hoặc bàn chân. Trong trường hợp vận động, hoạt động sai tư thế, ngồi nhiều, thường xuyên làm việc nặng thì cơn đau sẽ tăng lên nhưng khi nằm nghỉ sẽ đỡ đau. Nếu khối thoát vị lớn chèn ép vào rễ thần kinh còn gây ra tê chân, cơ yếu, đặc biệt là yếu bàn chân, dễ vấp ngã, thậm chí khi xuất hiện hội chứng đuôi ngựa có thể bị teo cơ, tiểu tiện, đại tiện khó khăn.

Các nhà nghiên cứu bệnh đau nhức xương khớp chia các biểu hiện của thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng ra làm 4 loại:

  • Loại 1: Đây là loại thoát vị đĩa đệm đau âm ỉ lan tỏa ở vùng thắt lưng nhưng không gây đau thần kinh tọa. Đây là loại được xếp vào hạng chiếm tỉ lệ cao nhất.
  • Loại 2: Đây là loại thoát vị đĩa đệm đau thắt lưng kèm theo đau thần kinh tọa kèm theo cảm giác tê, cơ yếu, đau buốt xuống gót chân và ngón chân.
  • Loại 3: Là loại thoát vị đĩa đệm đau thắt lưng đột ngột dữ dội (Đây là loại được gọi là loại cấp tính)
  • Loại 4: Đây là loại thoát vị đĩa đệm chỉ có tế hoặc yếu chân mà không gây đau hoặc teo cơ, rối loạn tiểu tiện. Kiểu đau này được xếp vào dạng thoát vị đĩa đệm mạn tính hoặc có hẹp ống sống tốn thương gây hội chứng đuôi ngựa.

Hiện nay có khoảng 70% dân số bị đau thắt lưng 50% số đau thắt lưng đơn thuần do thoái hóa, vận động sai tư thế,… ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe cũng như sinh hoạt. Do đó khi có những biểu hiện của bệnh thoát vị đĩa đệm, bạn nên đến cơ sở y tế để kiểm tra để có hướng điều trị kịp thời.

Nguồn: Bệnh học

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Hen Phế Quản – Triệu Chứng Và Điều Trị

Hen phế quản (suyễn) là tình trạng viêm mạn tính đường thở dẫn tới làm tăng tính đáp ứng đường thở (co thắt, phù nề, tăng tiết đờm) gây tắc nghẽn, hạn chế luồng khí đường thở, làm xuất hiện các dấu hiệu khò khè, khó thở, nặng ngực và ho tái diễn nhiều lần

1. Dịch tễ học

Hen phế quản là một bệnh thường gặp, xuất hiện ở mọi lứa tuổi, trẻ em chiếm đa số so với người lớn, tỉ lệ 2/1. Những nghiên cứu dịch tể học trong những năm gần đây cho thấy tần suất trung bình khoảng 5 %, trẻ em dưới 5 tuổi 10 %. Rất nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy tần suất này gia tăng gấp 3 – 4 lần trong những thập niên qua.

Độ lưu hành hen phế quản tại Pháp trong lứa tuổi 18 – 65 tuổi là 3,9 % (Charpin và c.s 1987, Maladies respiratoires 1993, tr 335), tại Ý trong lứa tuổi 5 – 64 tuổi là 5 % (Paolette và c.s 1989, Maladies respiratoires 1993, tr 335). Tại Việt Nam, ở Hà Nội, trong năm 1991 là 3,3 %, năm 1995 tăng lên 4,3 % (Vương Thị Tâm và c.s trong báo cáo của hội nghị tổng kết 5 năm 1991 – 1995 của Viện chống lao và bệnh phổi); ở thành phố Hồ Chí Minh, độ lưu hành hen phế quản là 3,2 (1,39 % (Phạm Duy Linh và c.s báo cáo trong Hội thảo Y dược học lần thứ 5 tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 25 – 27/11/1996), ở thành phố Huế, độ lưu hành hen phế quản năm 2000 là 4,58 (1,12% (Lê Văn Bàng).

2. Nguyên nhân gây bệnh hen phế quản

  • Hen phế quản dị ứng
  • Hen phế quản dị ứng không nhiễm khuẩn

Dị ứng nguyên hô hấp: thường là bụi nhà, các loại bọ nhà như Dermatophagoides ptéronyssimus, bụi chăn đệm, các lông móng các loài gia súc như chó, mèo, chuột, thỏ v.v…; phấn hoa, cây cỏ, hay nghề nghiệp trong các xưởng dệt.

Dị ứng nguyên thực phẩm: thường gặp là tôm, cua, sò, hến, cà chua, trứng…

Dị ứng nguyên là thuốc aspirine, kháng viêm không steroide, pennicilline; một số phẩm nhuộm màu và chất giữ thực phẩm.

Hen phế quản dị ứng nhiễm khuẩn

Vi khuẩn thường gặp là streptococcus pyogenes, streptococcus pneumoniae, staphylococcus aureus…

  • Virus: thường gặp là virus hợp bào hô hấp, parainfluenza, cúm.
  • Nấm: như nấm Cladosporium hay Alternaria, các nấm mốc.

Hen phế quản không do dị ứng

  • Di truyền: tiền sử gia đình, liên quan đến kháng nguyên hòa hợp tổ chức HLA.
  • Gắng sức: khi gắng sức và nhất là khi ngưng gắng sức.
  • Lạnh: không khí lạnh.
  • Rối loạn nội tiết: trong thời kỳ trưởng thành, thời kỳ trước kinh nguyệt, lúc mang thai, thời kỳ mãn kinh.
  • Yếu tố tâm lý: tâm trạng lo âu, mâu thuẫn cảm xúc, chấn thương tình cảm.
  • Cơ chế sinh bệnh
  • Hen phế quản xảy ra qua 3 quá trình

Viêm phế quản: là quá trình cơ bản trong cơ chế hen phế quản bắt đầu từ khi diû ứng nguyên lọt và cơ thể tạo ra phản ứng dị ứng thông qua vài trò của kháng thể lgE. Những tế bào gây viên phế quản bao gồm tế bào mast, bạch cầu đa nhân (ái toan, ái kiềm, trung tính), đại thực bào phế nang, bạch cầu đơn nhân, lympho bào và tiểu cầu phóng thích các chất trung gian hóa học gây viêm như histamine, sérotonine, bradykinine, thromboxane, prostaglandine, leucotriène, PAF và một số interleukine.

Co thắt phế quản: do tác động của các chất trung gian hóa học gây viêm và vai trò của hệ thần kinh tự động gồm hệ cholinergic, hệ adrenergic và hệ không cholinergic không adrenergic.

Tăng phản ứng phế quản: xảy ra sau khi dị ứng nguyên vào cơ thể, qua tác động của các tế bào gây viêm. Đây là một trạng thái bệnh lý không đặc hiệu cho hen phế quản.

3. Triệu chứng lâm sàng cơn hen phế quản điển hình

Giai đoạn khởi phát:

Cơn hen phế quản thường xuất hiện đột ngột vào ban đêm, nhất là nửa đêm về sáng; thời gian xuất hiện tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tiếp xúc dị ứng nguyên hô hấp, thức ăn, gắng sức, không khí lạnh, nhiễm virus đường hô hấp trên, v.v… Các tiền triệu như ngứa mũi, hắt hơi, chảy nước mũi, nước mắt, ho từng cơn, bồn chồn v.v… nhưng không phải lúc nào cũng có.

Giai đoạn lên cơn:

Sau đó, cơn khó thở xảy ra, khó thở chậm, khó thở kỳ thở ra xuất hiện nhanh, trong cơn hen lồng ngực bệnh nhân căng ra, các cơ hô hấp phụ nổi rõ, có thể có tím ở đầu tay chân sau đó lan ra mặt và toàn thân. Nhịp thở chậm, tiếng thở rít kéo dài. Đứng xa có thể nghe tiếng rít hay sò sè của bệnh nhân. Nghe phổi có nhiều ran rít và ran ngáy. Cơn khó thở dài hay ngắn tùy theo từng bệnh nhân.

Giai đoạn lui cơn:

Sau vài phút hay vài giờ, cơn hen giản dần, bệnh nhân ho khạc đàm rất khó khăn, đàm đặc quánh, có nhiều hạt nhỏ như hạt trai. Lúc này nghe phổi phát hiện được nhiều ran ẩm, một ít ran ngáy. Khạc đàm nhiều báo hiệu cơn hen đã hết.

Giai đoạn giữa các cơn hen phế quản:

Giữa các cơn, các triệu chứng trên không còn. Lúc này khám lâm sàng bình thường. Tuy nhiên nếu làm một số trắc nghiệm như gắng sức, dùng acétycholine, thì vẫn phát hiện tình trạng tăng phản ứng phế quản.

4. Triệu chứng cận lâm sàng hen phế quản

  • Thăm dò chức năng hô hấp
  • Rối loạn thông khí

Đo FEV1 (thể tích thở ra tối đa trong giây đầu) và FEV1/FVC (tỉ số Tiffeneau): trong cơn giảm dưới 80% so với lý thuyết.

Đo PEF (lưu lượng thở ra đỉnh): trong cơn giảm dưới 80% so với lý thuyết.

Khí máu: đo PaO2, PaCO2, SaO2, và pH máu, đây là xét nghiệm bổ sung để đánh giá mức độ suy hô hấp.

Các xét nghiệm về dị ứng

  • Test da: dùng phương pháp lảy da, da đỏ là dương tính.
  • Test tìm kháng thể: như kháng thể ngưng kết, kháng thể kết tủa thường là lgG, lgM.
  • Định lượng lgE toàn phần và lgE đặc hiệu.
  • Phim lồng ngực: trong cơn hen, lồng ngực căng phồng, các khoảng gian sườn giãn rộng, cơ hoành hạ thấp, phổi tăng sáng, rốn phổi đậm.

5. Chẩn đoán Hen phế quản

Chẩn đoán xác định: căn cứ chủ yếu vào

  • Tiền sử cá nhân về dị ứng: như chàm, mày đay, có tiếp xúc với dị ứng nguyên trước đó, tièn sử gia đình về hen, dị ứng hoặc các yếu tố khác như gắng sức, lạnh v.v…
  • Hội chứng hẹp tiểu phế quản do co thắt: khó thở chậm, chủ yếu kỳ thở ra, phổi nghe nhiều ran rít, ran ngáy, phim phổi cho thấy hình ảnh khí phế thủng.
  • Cơn khó thở có tính chất hồi qui, đáp ứng tốt với thuốc giãn phế quản, tét phục hồi phế quản với đồng vận bêta 2 dương tính tức sau khi dùng đồng vận bêta 2 thì FEV1 > 200ml và FEV1/FVC > 15%.

Chẩn đoán phân biệt

  • Hen tim: bệnh nhân có tiền sử các bệnh van tim như hẹp van hai lá, hở van động mạch chủ, cao huyết áp, khó thở nhanh, cả 2 kỳ, phổi nghe nhiều ran ứ dịch, rất ít ran ngáy, phim phổi cho thấy hình ảnh ứ dịch, tâm điện đồ để xác minh thêm nguyên nhân.
  • Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tinh: có tiền sử bệnh phổi tắc nghẽn mạn tinh thường do thuốc lá, có hội chứng nhiễm trùng, khó thở nhanh, không có tiền sử cá nhân và gia đình về dị ứng hay hen, phổi nghe ran ẩm to hạt kèm ran rít và ran ngáy, tét phục hồi phế quản với đồng vận bêta 2 âm tính.

6. PHÂN LOẠI ĐỘ TRẦM TRỌNG HEN PHẾ QUẢN QUA TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG TRƯỚC ĐIỀU TRỊ

BẬC 1 (TỪNG CƠN)

Những triệu chứng xảy ra < 1 lần / tuần.

Những đợt bộc phát ngắn.

Những triệu chứng ban đêm < 2 lần / tháng.

FEV1 hay PEF ≥ 80% so với lý thuyết

PEF hay FEV1 biến thiên < 20%

BẬC 2 (DAI DẲNG NHẸ)

Những triệu chứng xảy ra > 1 lần / tuần nhưng < 1 lần / ngày.

Những đợt bộc phát có thể ảnh hưởng đến hoạt động và giấc ngủ.

Những triệu chứng ban đêm > 2 lần / tháng.

FEV1 hay PEF ≥ 80% so với lý thuyết.

PEF hay FEV1 biến thiên 20 30%.

BẬC 3 (DAI DẲNG VỪA)

Những triệu chứng xảy ra hằng ngày.

Những đợt bộc phát ảnh hưởng đến hoạt động và giấc ngủ.

Những triệu chứng ban đêm > 1 lần / tuần.

Hàng ngày phải sử dụng thuốc khí dung đồng vận (2 tác dụng ngắn

FEV1 hay PEF 60 – 80% so với lý thuyết

PEF hay FEV1 biến thiên > 30%

BẬC 4 (DAI DẲNG NẶNG)

Những triệu chứng xảy ra hằng ngày.

Thường xuyên có những đợt bộc phát.

Những triệu chứng thường xảy ra ban đêm.

Giới hạn những hoạt động thể lực.

FEV1 hay PEF ≤ 60% so với lý thuyết.

PEF hay FEV1 biến thiên > 30%

7. Biến chứng

7.1 Biến chứng cấp

Hen phế quản cấp nặng: có thể xuất phát từ hội chứng đe dọa hen phế quản cấp nặng, hội chứng nầy có thể tương ứng với tình trạng cơn hen cấp không đáp ứng với điều trị thông thường và nặng dần; hoặc xảy ra rất cấp đôi khi trong vòng vài phút. Đó là tình trạng nguy cấp có tiên lượng sinh tử trong thời gian ngắn.

Sự chẩn đoán phải được thực hiện sớm và có tính cấp cứu.

7.2 Những dấu chứng hô hấp

  • Tình trạng nguy cấp hô hấp với tím, vã mồ hôi, khó thở nhanh nông, tần số trên 30 lần/phút kèm dấu cơ kéo các cơ hô hấp.
  • Rối loạn tri giác: lo âu kèm vật vả hay ngược lại lơ mơ có thể đi dần vào hôn mê.
  • Có thể thở chậm chứng tỏ có sự suy kiệt cơ hô hấp và báo trước sự ngưng hô hấp.
  • Nghe phổi: im lặng cả hai bên phổi.
  • Lưu lượng thở ra đỉnh dưới 150 lít/phút.
  • PaO2 < 60 mmHg, PaCO2 > 45 mmHg.
  • pH máu < 7,38.

7.3 Những dấu chứng tim mạch

  • Mạch nhanh thường trên 120 lần/phút, mạch chậm là dấu chứng rất nặng báo hiệu ngưng tuần hoàn.
  • Mạch nghịch lý làm mạch giảm biên độ trong kỳ thở vào, có thể xác định bằng cách đo hiệu áp tâm thu giữa kỳ thở ra và kỳ thở vào thường trên 20 mmHg.
  • Tâm phế cấp với dấu chứng suy tim phải.
  • Huyết áp có thể tăng liên quan đến sự tăng PaCO2, huyết áp hạ trong những trường hợp quá nặng.
  • Tràn khí màng phổi: do vở bóng khí phế thủng.

Nhiễm khuẩn phế quản – phổi: thường do Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenza, staphylococcus aureus, mycoplasma pneumonniae, legionella pneumophila.

7.4 Biến chứng mạn

  • Khi phế thủng đa tiểu thùy
  • Thường có khó thở khi gắng sức, khi làm việc nặng, tím môi và đầu chi, lồng ngực biến dạng hình ức gà hay hình thùng, gõ vang, âm bào giảm.
  • Thể tích cặn và dung tích cặn chức năng tăng, có rối loạn thông khí phối hợp, PaO2 chỉ giảm ở giai đoạn sau và PaCO2 chỉ tăng ở giai đoạn sau.
  • Suy hô hấp mạn
  • Tím và khó thở: thở nhanh nông, thở ra môi khép chặt, dấu hiệu HOOVER.

Suy hô hập mạn nghẽn có giảm rõ các thể tích cặn, các lưu lượng trung bình và lưu lượng đỉnh, tăng độ giãn phổi, suy hô hấp mạn hạn chế có giảm thể tích phổi, giảm độ giãn phổi, tùy theo mức độ suy hô hấp mà PaO2 dưới 65 – 70 mmHg và PaCO2 trên 43mmHg.

Khó thở càng ngày càng tăng dần từ khó thở khi gắng sức, đến khó thở khi leo lên dốc hay lên cầu thang, đến khó thở khi đi nhanh trên đường phẳng, đến khó thở thì đi chậm trên đường phẳng, cuối cùng khó thở khi làm việc nhẹ như vệ sinh, cởi áo quần, về sau khó thở khi nghỉ ngơi. Tím môi, đầu chi, mặt nếu nặng tím toàn thân.

Triệu chứng suy tim phải: Trên lâm sàng và trên cận lâm sàng.

PaO2 giảm đến 70 mmHg, PaO2 tăng 50-80mmHg, SaO2 < 75 %, pH máu có thể giảm < 7,2.

8. Điều trị Hen phế quản

Xử trí hen phế quản theo các bậc

Bậc 1 (Hen phế quản cách khoảng)

Trong hen phế quản cách khoảng, độ trầm trọng của đợt bộc phát cấp thay đổi theo từng bệnh nhân và theo thời gian. Những đợt bộc phát cấp nặng rất ít gặp.

Thuốc sử dụng trong hầu hết các bệnh nhân hen phế quản cách khoảng nhẹ là thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh, ngoài ra có thể sử dụng cromone hay thuốc kháng leukotriene. Thuốc kháng cholinergic, đồng vận β2 uống, hay theophylline tác dụng ngắn có thể dùng xen kẻ với thuốc đồng vận β2 khí dung, mặc dù những loại thuốc này có thời gian bắt đầu tác dụng chậm và hay là có nguy cơ có nhiều tác dụng phụ hơn. Thường thường những đợt bộc phát cấp nặng hơn hay kéo dài hơn có thể đòi hỏi sự sử dụng một đợt điều trị ngắn bằng glucocorticoide uống.

Bậc 2 (Hen phế quản dai dẳng nhẹ)

Những bệnh nhân bị hen phế quản dai dẳng nhẹ cần phải được sử dụng thuốc hằng ngày để hoàn thành và duy trì sự kiểm soát hen phế quản. Trị liệu đầu tiên là thuốc kháng viêm dùng hằng ngày. Điều trị chọn lựa một loại glucocorticoide khí dung (200 – 500μg Beclometasone dipropionate, hay Budenoside, 1000 – 250μg fluticasone chia 2 lần/ngày). Thuốc dùng xen kẽ là theophylline thải chậm, cromones, và kháng leukotriene, nhưng những loại thuốc này kém hiệu quả hơn glucocorticoide khí dung hay chỉ có hiệu quả ở một số bệnh nhân. Điều trị lâu dài theophylline thải chậm cần phải theo dõi nồng độ theophylline trong huyết thanh với nồng độ điều trị là 5 – 15μg/ml.

Thêm vào điều trị đều đặn trên, bệnh nhân hen phế quản bậc 2 có thể sử dụng một loại thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh, nhưng không được quá 3 – 4 lần/ngày.

Những thuốc giãn phế quản khác có thể được sử dung như thuốc kháng cholinergic, đồng vận β2 uống tác dụng nhanh, hay theophylline tác dụng ngắn, mặc dù những loại thuốc này có thời gian bắt đầu tác dụng chậm và hay là có nguy cơ có nhiều tác dụng phụ hơn.

Nếu trị liệu lâu dài được bắt đầu với theophylline thải chậm, cromone hay kháng leukotriene, mà những triệu chưng tồn tại sau 4 tuần điều trị, thì glucocorticoide khí dung phải được sử dụng. Glucocorticoide khí dung có thể được sử dung ban đầu thay vì những loại thuốc khác, hay sử dụng kèm với nhau.

Bậc 3 (Hen phế quản dai dẳng vừa)

Những bệnh nhân bị hen phế quản dai dẳng vừa cần phải dùng thuốc hằng ngày để đạt được và duy trì sự kiểm soát hen phế quản. Điều trị chọn lựa là phối hợp một glucocorticoide khí dung (200 – 1000 μg beclometasone dipropionate, 400 – 1000 μg budenoside, 250 – 500 μg fluticasone chia 2 – 3 lần/ngày) với một đồng vận β2 khí dung tác dụng dài 2 lần/ngày.

Một phối hợp glucocorticoide khí dung với một đồng vận β2 khí dung tác dụng dài là một phối hợp tốt và tiên lợi.

Mặc dầu phối hợp glucocorticoide khí dung với một đồng vận β2 khí dung tác dụng dài là có hiệu quả nhất, nhưng những bệnh nhân hen phế quản dai dẳng vừa có thể sử dụng xen kẻ những loại thuốc như theophylline thải chậm, thuốc đồng vận β2 uống tác dụng dài, thuốc kháng leukotriene.

Thêm vào trị liệu đều đặn hằng ngày, thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh có thể được sử dung để cắt cơn, nhưng không được quá 3 – 4 lần/ngày. Thuốc kháng cholinergic khí dung, thuốc đồng vận β2 uống tác dụng nhanh, hay theophylline tác dụng ngắn có thể thay thế cho thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng ngắn, mặc dù những loại thuốc này có thời gian bắt đầu tác dụng chậm và hay là có nguy cơ có nhiều tác dụng phụ hơn.

Bậc 4 (Hen phế quản dai dẳng nặng)

Trong hen phế quản dai dẳng nặng, mục tiêu điều trị là đạt được kết quả tốt nhất – những triệu chứng tối thiểu, cần sử dụng thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh tối thiểu, PEF tốt nhất, tối thiểu cơn hen xuất hiện khoảng 1 lần / ngày, và tác dụng phụ tối thiểu. Trị liệu trước tiên là glucocorticoide khí dung liều cao hơn (> 1000 μg beclometasone dipropionate / ngày phối hợp với đồng vận β2 khí dung tác dụng dài 2 lần / ngày.

Thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng dài là thuốc được chọn lựa, nhưng có thể sử dụng những loai thuốc xen kẽ như theophylline thải chậm, thuốc đồng vận β2 uống tác dụng dài, thuốc kháng leukotriene. Những loại thuốc này có thể thêm vào trị liệu phối hợp giữa glucocorticoide khí dung liều cao với đồng vận β2 khí dung tác dụng dài. Thuốc đồng vận β2 khí dung tác dụng nhanh cũng được sử dụng khi cần. Nếu cần, glucocorticoide uống có thể được sư dụng với liều thấïp nhất, tốt nhất chỉ cho một lều duy nhất vào buổi sáng để giảm thiểu những tác dụng phụ hệ thống.

Glucocorticoide khí dung liều cao có thể được sử dụng, nhưng sự sử dụng này không được chứng ming rõ ràng là đã gây những tác dụng phụ hệ thống ít hơn so với sự sử dụng một liều tương đương glucocorticoide uống. Nhưng điều trị này rất tốn kem và có thể gây nên những tác dụng phụ tại chỗ như đau miệng. Không có một chứng cớ nào từ những nghiên cứu khuyến cáo nên sử dụng glucocorticoide khí dung trong hen phế quản ổn định ở người lớn. 10.2. Điều trị hỗ trợ

Liệu pháp oxy: khi cần thở oxy khoảng 2l/phút.

Kháng sinh: chỉ dùng khi có bội nhiễm phế quản – phổi.

Điều trị cơn hen phế quản cấp nặng

Liệu pháp oxy: phải thực hiện liền không cần chờ kết quả khí máu, cung lượng cao 6l/phút nếu không có suy hô hấp mạn, nếu có suy hô hấp mạnh cung lượng thấp 2l/phút.

Thuốc giãn phế quản

  • Thuốc kích thích bêta 2: tiêm dưới da Terbutaline (Bricanyl) 1 ống 0,5 mg là biện pháp cấp cứu ban đầu ngay tại nhà bệnh nhân.

Khi nhập viện thì dùng khí dung Salbutamol, 1 ml chứa 5 mg hòa 4ml dung dịch sinh lý qua máy khí dung cho hít trong 10 – 15 phút, có thể lập lại tùy diễn tiến lâm sàng, 30 phút một lần. Có thể dùng Salbutamol tiêm tĩnh mạch liên tục bằng ống tiêm tự động, liều lượng ban đầu thường là 0,1 – 0,2 μg/kg/phút, tăng liều từng 1 mg/giờ theo diễn tiến lâm sàng.

  • Adrénaline: chỉ định chi các thuốc kích thích bêta 2 bị thất bại; liều lượng khởi đầu thường là 0,5 – 1 mg/giờ tiêm tĩnh mạch bằng ống tiêm tự động.
  • Aminophylline: có thể kết hợp, dùng bằng đường chuyền tĩnh mạch với dung dịch Glucoza 5 % liên tục với liều lượng 0,5 – 0,6 mg/kg/giờ.
  • Kháng sinh: được sử dụng khi có nhiễm trùng phế quản – phổi kèm theo, có thể dùng Cephalosporines, Macrolides hay Fluoroquinolones hô hấp.

Corticosteroide: Methylprednisolone (Solumedrol) 60 – 80mg mỗi 6 giờ.

Thở máy: được chỉ định trong thể ngạt cấp hay trong thể mà điều trị bằng thuốc bị thất bại gây suy kiệt cơ hô hấp.

Theo dõi bệnh nhân

Mục đích điều trị cơn hen cấp là làm thế nào để các triệu chứng giảm nhanh và cải thiện chức năng hô hấp càng nhanh càng tốt, đồng thời giảm thiểu tối đa tác dụng phụ của thuốc.

Nếu điều trị ban đầu không có kết quả, nếu PaCO2 còn thấp, thì có thể tiếp tục điều trị tại bệnh phòng; nhưng nếu PaCO2 tăng và pH bị toan hóa thì bệnh nhân phải được chuyển đến phòng hồi sức để thực hiện thông khí hỗ trợ.

Đối với hen phế quản cấp nặng là một cấp cứu nội khoa, bắt buộc phải nhập viện gấp vào khoa hồi sức hô hấp. Nếu chẩn đoán là hội chứng đe dọa hen phế quản cấp nặng hay hen phế quản cấp nặng hay hen phế quản cấp nặng ở nhà thì phải đưa ngay bệnh nhân đến khoa hồi sức bằng xe cấp cứu có trang bị.

Phòng ngừa cơn hen phế quản tái phát

Hiện nay theo GINA người ta khuyến cáo nên dùng Seretide trong điều trị duy trì kiểm soát cơn hen phế quản và người ta nhận thấy những bệnh nhân hen phế quản được điều trị bằng Seretide rất ít bị xảy ra cơn hen phế quản nặng.

  • Phòng tránh các yếu tố bất lợi của môi trường
  • Tránh các hoạt động thể lực không cần thiết.
  • Tránh tiếp xúc bụi, khói nhất là khói thuốc lá và các chất kích thích khác.
  • Tránh tiếp xúc với những người bị nhiễm trùng hô hấp.
  • Giữ môi trường trong nhà trong lành.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Suy Hô Hấp Cấp – Triệu Chứng Và Điều Trị

Suy hô hấp cấp là sự rối loạn nặng nề của sự trao đổi oxy máu; một cách tổng quát, suy hô hấp cấp là một sự giảm thực sự áp lực riêng phần khí oxy trong động mạch (PaO2) < 60 mmHg, áp lực riêng phần khí carbonic trong động mạch (PaCO2) có thể bình thường, giảm hay tăng.

Suy hô hấp cấp

Có 2 loại suy hô hấp cấp:

  • Suy hô hấp cấp với thiếu oxy máu kèm ứ khí cácbonic.
  • Suy hô hấp cấp với thiếu oxy máu kèm giảm khí cácbonic.

I. Bệnh nguyên

1. Nguyên nhân tại phổi

Sự mất bù cấp của những suy hô hấp mạn

Yếu tố làm dễ là nhiễm trùng phế quản – phổi, thuyên tắc động mạch phổi, tràn khí màng phổi.

Những bệnh phổi nhiễm trùng:

Chúng xảy ra trên phổi lành thì chỉ gây suy hô hấp cấp khi những nhiễm trùng phổi đó lan rộng ra nhiều thùy: phế quản phế viêm do vi trùng mũ, lao kê, nhiễm virus ác tính.

1.1 Phù phổi cấp

  • Phù phổi cấp do tim

Tất cả những nguyên nhân gây suy tim trái: tăng huyết áp liên tục hay cơn tăng huyết áp, suy mạch vành trong đó nhồi máu cơ tim là nguyên nhân thường gặp nhất, hẹp hở van động mạch chủ, hở van hai lá, bệnh cơ tim.

  • Hẹp van hai lá.
  • Thuyên tắc động mạch phổi.

Phù phổi cấp trên tim lành: do yếu tố tăng áp lực mao quản.

  • Chuyền dịch quá nhiều.

Nguyên nhân thần kinh: chấn thương sọ não, u hay phẫu thuật chạm đến thân não, viêm não.

  • Phù phổi cấp do tổn thương thực thể

Trước hết phải kể đến cúm ác tính do nhiều yếu tố: yếu tố virus, yếu tố cơ địa, vì những thể nặng gặp chủ yếu ở người đã bị bệnh tim trái, hẹp hai lá, nhất là ở người già, đàn bà có thai; ở trẻ em bị nhiễm virus nặng dưới dạng viêm tiểu phế quản – phế nang. Ít gặp hơn là do chất độc (héroin, oxyd cácbon, nọc rắn độc), sốc nhiễm trùng, thuyên tắc do mỡ, chết đuối, hội chứng Mendelson (hít phải dịch vị do ợ).

  • Hen phế quản đe dọa nặng, hen phế quản cấp nặng

Đây là bệnh thường gặp, thường là do điều trị không đúng cách hay không kịp thời có thể do cơ địa bệnh nhân dễ bị hen phế quản nặng.

  • Tắc nghẽn phế quản cấp

Bệnh nầy ít gặp, ở trẻ em có thể do vật lạ, ở người lớn có thể do u, xẹp phổi cấp có thể do đặt nội khí quản.

2. Nguyên nhân ngoài phổi

  • Tắc nghẽn thanh – khí quản

Bệnh nầy do u như u thanh quản, bướu giáp chìm, u thực quản vùng cổ, u khí quản; do nhiễm trùng như viêm thanh quản, uốn ván; do vật lạ lớn.

  • Tràn dịch màng phổi

Ít gây suy hô hấp cấp nếu tràn dịch từ từ, chỉ gây suy hô hấp cấp khi tràn dịch cấp, lượng dịch tăng nhanh.

  • Tràn khí màng phổi thể tự do

Thường do lao phổi, vỡ bóng khí phế thủng, vỡ kén khí bẩm sinh, tự phát (không rõ nguyên nhân), có thể do vỡ áp xe phổi luôn luôn kèm tràn mủ màng phổi.

  • Chấn thương lồng ngực

Bệnh này gây gãy xương sườn từ đó gây tổn thương màng phổi và phổi.

  • Tổn thương cơ hô hấp

Nguyên nhân thường gặp là viêm sừng trước tủy sống, hội chứng Guillain Barré kèm liệt lên cấp Landry, uốn ván, rắn cắn, ngộ độc thuốc trừ sâu gốc phốtpho hữu cơ, bệnh nhược cơ nặng, viêm đa cơ.

  • Tổn thương thần kinh trung ương

Nguyên nhân thường là chấn thương sọ não, ngộ độc thuốc, tai biến mạch máu não; những nguyên nhân gây nên tổn thương trung tâm hô hấp.

II. Cơ chế sinh bệnh

1. Cơ chế gây nên thiếu oxy máu

  • Giảm thông khí phế nang

Áp lực khí oxy trong phế nang được xác định bởi sự quân bình giữa tốc độ mất đi của khí oxy, chức năng chuyển hóa ở mô và tốc độ đổi mới của khí oxy bởi thông khí phế nang. Nếu thông khí phế nang giảm một cách bất thường thì áp lực oxy trong phế nang giảm rồi áp lực riêng phần khí oxy trong động lạch giảm theo. Sự giảm thông khí phế nang có thể thứ phát sau một tổn thương trung tâm hô hấp (hôn mê, ngộ độc thuốc) hay một sự vô hiệu hóa hoạt động lồng ngực – phổi (tổn thương sừng trước tủy sống, tổn thương cơ hô hấp hay dây thần kinh chi phối).

  • Sự mất cân bằng giữa thông khí / tưới máu

Sự kém hài hòa giữa thông khí và lưu lượng máu là nguyên nhân gây nên sự rối loạn trao đổi khí trong một đơn vị phổi; tỉ thông khí / tưới máu gần bằng 1; áp lực khí oxy và khí cácbonic trong phế nang là 100 mmHg và 40 mmHg gần bằng áp lực riêng phần khí oxy và khí cácbonic trong động mạch. Nếu không khí giảm, tỉ thông khí / tưới máu: VA / Q bằng 0 thì áp lực khí oxy và khí cácbonic trong phế nang và áp lực riêng phần khí oxy và khí cácbonic gần bằng nhau, áp lực riêng phần khí oxy và khí cácbonic trong tĩnh mạch là 40 mmHg và 45 mmHg.

Nếu sự tưới máu giảm, thì tỉ thông khí / tưới máu có khuynh hướng vô hạn, áp lực khí trong phế nang và trong động mạch gần bằng áp lực khí hít vào (PO2 = 150mmHg, PCO2 = 0). Ở phổi, tỉ thông khí / tưới máu thay đổi theo vùng và theo bệnh lý. Có 3 loại bất thường của tỷ nầy:

  • Shunt phổi

Bất thường này là sự lưu thông máu trong hệ thống động mạch không đi qua những vùng được hô hấp. Người ta gặp shunt phổi trong phù phổi, xẹp phổi.

  • Hiệu quả shunt

Bất thường nầy tương ứng với sự khuếch tán của những đơn vị phổi mà thông khí giảm, tỉ thông khí / tưới máu giảm, nhưng những phế nang vẫn còn hoạt động ít nhất ở giai đoạn đầu của sự thông thương với đường hô hấp; thiếu oxy máu là do sự giảm sự cung cấp khí oxy của máu tĩnh mạch. Người ta gặp hiệu quả shunt trong phù phổi, bệnh phổi cấp, viêm phế quản cấp, viêm phế quản mạn, tràn dịch màng phổi.

  • Hiệu quả khoảng chết

Bất thường nầy do sự giảm thông khí của một đơn vị phổi vẫn còn hô hấp được, tỉ thông khí / tưới máu có khuynh hướng vô hạn. Sự nghẽn hay phá hủy mạch máu phổi (thuyên tắc động mạch phổi, khí phế thủng) gây nên một khoảng chết thêm vào khoảng chết giải phẫu.

Sự thiếu oxy máu càng nặng khi số lượng phế nang không tham gia vào sự trao đổi khí vàng nhiều; sự tăng thông khí (thở bù) đưa đến một sự giảm khí cácbonic máu nếu khí trong phế nang không bị ứ lại trong kỳ thở ra (viêm phế quản mạn, hen phế quản cấp nặng).

2. Rối loạn khuếch tán

Một vài bệnh phổi như bệnh phổi kẽ xơ hóa gây nên tổn thương màng phế nang – mao mạch, bề dày màng nầy > 0,5(, như vậy sẽ làm giảm sự trao đổi khí oxy từ phế nang sang mao mạch. Vai trò bloc phế nang – mao lạch gây nên thiếu oxy máu còn bàn cải.

  • Cơ chế gây nên sự thay đổi khí cácbonic trong máu

Áp lực khí cácbonic trong phế nang và trong động mạch thay đổi ngược chiều với thông khí phế nang. Những sự thay đổi của sự tạo khí cácbonic thường nhỏ và đóng một vai trò không quan trọng trong những sự thay đổi khí cácbonic trong máu.

  • Giảm khí cácbonic máu

Hiện tượng này là hậu quả của sự tăng thông khí gây nên do thiếu oxy máu.

  • Tăng khí cácbonic máu

Hiện tượng này là một sự không thích ứng của hệ số thanh lọc phổi đối với khí cácbonic, nó tương ứng với một sự giảm thông khí phế nang.

III. Triệu chứng suy hô hấp cấp

1. Lâm sàng

  • Nhịp thở và biên độ hô hấp

Thiếu oxy máu và hay là tăng khí cácbonic máu gây nên thở nhanh, tần số thở khoảng 40 lần / phút phối hợp với sự co kéo các cơ hô hấp, thấy rõ ở hỏm trên xương ức và các khoảng gian sườn; ở trẻ em có thể kèm theo cánh mũi phập phồng. Trong những trường hợp có tổn thương do liệt (viêm đa rễ thần kinh, liệt 4 chi do tổn thương tủy sống, bệnh nhược cơ nặng…), tần số thở thường giảm, biên độ hô hấp yếu, bệnh nhân không ho được, do đó gây nên ứ đọng đàm giải trong phế quản.

Theo dõi nhịp thở rất quan trọng vì nhịp thở chậm có thể là sự cải thiện của trao đổi khí oxy máu nhưng cũng có thể là sự suy kiệt cơ hô hấp nhất là trong trường hợp hen phế quản cấp nặng.

Trong các bệnh thanh – khí quản, người ta thấy có sự phối hợp khó thở vào.

  • Tím

Tím là dấu chứng chủ yếu, xuất hiện ở môi, đầu tay chân, mặt hay toàn thân khi hemoblogine khử > 50g / l. Tỉ nầy tương ứng với độ bão hoà khí oxy trong máu động mạch là 85 %. Tím càng rõ khi hemoglobine máu càng cao (suy hô hấp mạn); không thấy rõ tím khi thiếu máu nặng. Tím thường phối hợp với tăng khí cácbonic máu, tím đi kèm giãn mạch ở đầu chi, đôi khi có vã mồ hôi.

  • Dấu chứng tuần hoàn

Thiếu oxy máu và tăng khí cácbonic máu làm tăng tỉ catécholamine và như vậy làm mạch nhanh, gây nên những cơn tăng huyết áp và tăng cung lượng tim, có thể có loạn nhịp trên thất, giai đoạn sau huyết áp có thể hạ.

  • Dấu chứng suy thất phải cấp

Đặc biệt thường gặp trong đợt cấp của suy hô hấp mạn. Dấu chứng chính là: gan lớn, dấu hiệu phản hồi gan tĩnh mạch cổ, nặng hơn là tĩnh mạch cổ nổi tự nhiên (ở tư thế 450), những dấu chứng nầy giảm khi suy hô hấp cấp giảm.

  • Dấu chứng thần kinh tâm thần

Dấu chứng nầy chỉ gặp trong suy hô hấp cấp nặng; đó là trạng thái kích thích, vật vã, rối loạn tri giác như lơ mơ hay hôn mê.

2. Cận lâm sàng

  • Khí máu

– Bình thường – PaO2 là 80- 95 mmHg.

– PaCO2 là 38 – 43 mmHg.

– pH máu là 7,38 – 7,43

– Dự trử kiềm là 24 – 26 mmol / l.

  • Bệnh lý

– Thiếu oxy máu: PaO2 có thể giảm chỉ còn 25 mmHg.

– Rối loạn khí cácbonic: sẽ đưa đến rối loạn cân bằng toan kiềm.

– Tăng PaCO2: đưa đến toan hô hấp mà sự bù trừ là nhờ những chất đệm của máu và của mô và nhờ sự thải ion Hqua thận.

– Khi có tăng PaCO2 cấp, cơ chế đệm lúc đầu là huyết tương và huyết cầu, sau đó là mô và thận can thiệp trong giai đoạn 2 vào giờ thứ 24 bằng cách tăng thải trừ ion Hvà tái hấp thu ion Navà bicarbonate.

– Toan hô hấp gọi là còn bù khi những chất đệm tế bào được sử dụng giữ cho pH không giảm. Sự bù trừ nầy được giới hạn bởi sự gia tăng bicarbonate không quá 50 mmol/l.

– Giảm PaCO2: đưa đến kiềm hô hấp với giảm bicarbonate huyết tương.

– Khảo sát tim mạch

– Tâm điện đồ và thông tim phải, siêu âm Dopler tim để khảo sát các tổn thương tim.

– Phim lồng ngực

– Xét nghiệm nầy cần thực hiện để có thể phát hiện những tổn thương ở chủ mô phổi, màng phổi, trung thất.

IV. Phân giai đoạn suy hô hấp cấp

Bảng 1: Các giai đoạn của suy hô hấp cấp

Triệu chứng Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Giai đoạn 4
Khó thở Khi gắng sức, khi nằm lồng ngực di động được. Liên tục, lồng ngực di động

khó khăn

Liên tục, lồng ngực không di động, cơ hô hấp còn hoạt động mạnh Liên tục, các cơ hô hấp hoạt động yếu, thở nông, rối loạn hô hấp
Tần số thở

lần/phút

25-30 khi gắng sức

 

25 – 30 30 – 40

40

< 10

Tím Khi gắng sức Môi, đầu chi Mặt, mô, chi, đầu Toàn thân
Mồ hôi 0 ±
Mạch lần/phút 90 – 100 100 – 110 110 – 120 > 120
Huyết áp Bình thường Bình thường Cao Cao hay hạ
Rối loạn ý thức Không Không Vật vã Lơ mơ, hôn mê
SaO2 (%) 80 – 90 70 – 80 60 – 70 < 60
PaCO2 (mmHg) 40 45 – 55 55 – 70 > 70
pH máu 7,35 – 7,40 7,30 – 7,35 7,25 – 7,30 < 7,25
Dự trữ kiềm Bình thường Bình thường

Giảm

Giảm

V. Tiến triển và biến chứng

Suy hô hấp nếu được điều trị đúng mức thì có thể lui bệnh hoàn toàn. Trong quá trình tiến triển có thể bội nhiễm phổi hay đường tiểu nhất là đối với những bệnh nhân có đặt nội khí quản hay đặt xông tiểu.

Suy hô hấp cấp nếu điều trị không kịp thời thì có thể tiến triển nặng dần, bệnh nhân có thể hôn mê và tử vong.

VI. Điều trị suy hô hấp cấp

1. Nguyên tắc điều trị

  • Làm thông thoáng đường hô hấp.
  • Liệu pháp oxy.
  • Đặt ống nội khí quản, mở khí quản, hỗ trợ hô hấp.
  • Chống nhiễm khuẩn, bội nhiễm.
  • Kiềm hóa huyết tương.

2. Điều trị cụ thể

  • Điều trị hổ trợ và giải phóng đường hô hấp
  • Lau hút sạch mồm, họng, mũi
  • Đặt canuyn Mayo để khỏi tụt lưỡi
  • Hút đàm giải, chất xuất tiết bằng máy hút
  • Rửa phế quản, làm loãng đàm bằng khí dung, bằng bơm dung dịch bicarbonate de natri 14‰ hay dung dịch chlorure de natrri 9‰, 2 – 5 ml mỗi lần rồi hút ra.
  • Bồi phụ nước và điện giải và thăng bằng toan-kiềm
  • Đảm bảo có sự cân bằng giữa lượng dịch ra và vào hàng ngày, tránh khô quánh đàm, chất xuất tiết phế quản. Nếu có toan hô hấp thì phải truyền dịch kiêm như bicarbonate natri 14‰.
  • Liệu pháp oxy

Thở oxy

  • Khí oxy phải làm ẩm và làm ấm oxy đó trước khi sử dụng cho bệnh nhân. Khí oxy phải qua một bình chứa nước và được làm ấm bằng máy siêu âm hay bằng những tấm được làm nóng lên.
  • Những phương tiện thở oxy
  • Xông mũi thường đựoc áp dụng
  • Thường dùng nhất đầu của ống xông có nhiều lỗ, đặt không vượt quá lỗ mũi sau (chiều dài là khoảng cách giữa mũi và dái tai).
  • Xông mũi có thể dùng cho những cung lượng từ 1 – 6 lít / phút, thường dùng trong những trường hợp suy hô hấp nhẹ hay vừa.

Chỉ định

  • Thở oxy nguyên chất
  • Áp dụng trong rất ít trường hợp như ngưng tim, chảy máu nặng.
  • Khí thở được tăng cường oxy
  • Những bệnh nhân có nồng độ khí carbonic máu bình thường hay giảm: Tất cả những tình trạng thiếu oxy máu thì PaO2 đều giảm dưới 65 mmHg, cho thở oxy với cung lượng 4 – 6 lít / phút bằng xông mũi hay trong những trường hợp thiếu oxy nặng hơn thì sử dụng mặt nạ oxy.
  • Những bệnh nhân có nồng độ khí carbonic trong máu cao mạn tính: đó là những trường hợp suy hô hấp mạn, cung lượng oxy dùng ở bệnh nhân bị suy hô hấp mạn là thấp khoảng 1 – 3 lít / phút, thở ngắt quảng và được kiểm soát nồng độ các khí trong máu.

Đặt nội khí quản

  • Chỉ định

– Khi có trở ngại đường hô hấp trên như phù nề, vết thương thanh quản, hôn mê gây tụt lưỡi.

– Khi cần giảm khoảng chết để tăng thông khí phế nang, hỗ trợ hô hấp, cần thở oxy, thở máy.

– Khi có tăng khí cácbonic máu.

– Khi cần bảo vệ đường hô hấp, phòng hít sai lạc.

  • Phương pháp

Có hai phương pháp:

Đặt nội khí quản đường mũi

Còn gọi là đặt nội khí quản mò, là phương pháp được dùng phổ biến, nhất là đối với trẻ sơ sinh, trẻ còn bú và trẻ em, đặc biệt trong bệnh uốn ván và trong hồi sức nội khoa. Bệnh nhân đặt ở tư thế Jackson cải tiến: nằm ngữa, kê vai cao 5-7 cm để ngữa cổ vừa phải hoặc tư thế nửa ngồi, nhất là khi sợ máu, mủ, dịch…từ phổi bệnh trào sang phổi bên kia.

Đặt nội khí quản đường miệng

  • Bệnh nhân được đặt trong tư thế như trên: tư thế Jackson hay nửa ngồi. Cho thở oxy vài phút trước khi đặt ống.
  • Thông thường, ống không đặt quá 3 ngày.
  • Mở khí quản

Chỉ định

Như chỉ định đặt nội khí quản hay không đặt được ống hay khi cần đặt ống quá 3 ngày.

Phương pháp

  • Mở khí quản cao: dễ thấy khí quản hơn – Mở khí quản thấp.
  • Tai biến có thể gặp khi đặt nội khí quản và mở khí quản
  • Tai biến khi đặt
  • Chảy máu, phù nề thanh quản, thủng khí quản, co thắt thanh môn, ngưng tim.
  • Tai biến sau khi đặt
  • Nhiễm khuẩn nơi đặt, viêm phổi, loét, hoại tử khí quản, rò khí thực quản, tổn thương dây thanh âm, xẹp phổi, tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất, tràn khí dưới da.
  • Hỗ trợ hô hấp
  • Dụng cụ hỗ trợ hô hấp bằng tay
  • Khí thở được cung cấp cho bệnh nhân là khí trời.
  • Loại có bóng: Ambu, Canister.
  • Loại có túi xếp: Ranima, Drager.

Thở máy

Chỉ định

Thở máy được dùng khi các phương pháp hỗ trợ hô hấp thông thường không có hiệu quả.

Ba loại bệnh nhân lớn tương ứng với ba mức độ khác nhau về khí carbonic trong máu. Mỗi loại bệnh nhân cần một cách thức điều chỉnh hô hấp nhân tạo khác nhau:

Loại bệnh nhân thứ nhất: là loại có một sự gia tăng nhiều khí carbonic kèm một sự giảm khí oxy máu, như sự mất bù cấp của những suy hô hấp mạn, thở oxy phải bắt đầu với cung lượng thấp, sau đó tăng dần lên nhưng rất chậm, khả năng cung cấp oxy (FiO2) cao nhất là lúc khởi đầu.

Loại bệnh nhân thứ hai: là loại đang hình thành sự tăng khí carbonic máu, bệnh nhân này có thể hô hấp hoàn toàn bình thường với FiO2 khoảng 50%.

Loại bệnh nhân thứ ba: là loại có một sự giảm khí carbonic máu. Hiện tượng tăng hô hấp thứ phát sau thiếu khí oxy máu. Tuy nhiên do có bệnh lý phổi bên dưới, nên sự tăng hô hấp không kéo theo một sự tăng PaO2 được. Bởi vậy bệnh nhân nặng dần dần, càng ngày nợ oxy càng trở nên trầm trọng.

Có 5 loại máy thở:

  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên tần số.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên thể tích.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên áp lực.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ dựa trên dòng khí.
  • Máy thở tạo ra chu kỳ hỗn hợp.

Chống nhiễm khuẩn

Các vi khuẩn gây bội nhiễm thường là Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenza, Stapylococcus aureus, Klebsiella pneumoniae, v.v…, nên phải cho các kháng sinh thích hợp.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Áp Xe Phổi – Chẩn Đoán Và Điều Trị

Áp xe phổi là ổ mủ trong một vùng phổi hoại tử thành hang cấp tính hoặc mạn tính, nguyên phát hoặc thứ phát không do vi khuẩn lao. Áp xe phổi có thể 1 ổ hoặc nhiều ổ. Viêm phổi hoại tử là trường hợp có nhiều ổ áp xe nhỏ có đường kính dưới 2cm ở nhiều thuỳ phổi khác nhau.


I. Vi khuẩn học

Vi khuẩn yếm khí: Tìm thấy trong răng, lợi bị viêm có 99% vi khuẩn yếm khí. Chọc hút khí quản lấy bệnh phẩm tìm vi khuẩn yếm khí đạt 89%.

Vi khuẩn ái khí: Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus. Klebsiella pneumoniae thường gây nhiều ổ áp xe, gặp ở người nghiện rượu, thiếu hụt miễn dịch. Viêm phổi do Pseudomonas aeruginosa là viêm phổi bệnh viện. Ổ áp xe nhỏ và nhiều thì vi khuẩn thường là Streptococcus milleri.
Áp xe phổi có thể do nấm, amip, hiếm hơn là Salmonella hoặc vi khuẩn dịch hạch.

II. Lâm sàng

Bệnh nhân sốt, mệt mỏi, sút cân, thiếu máu, dấu hiệu của một viêm phổi.

Triệu chứng chủ yếu: ho, khạc đờm mủ nhiều, có thể ộc mủ, đờm và hơi thở có thể thối (60%) hoặc ho đờm lẫn máu. Sốt đôi khi có cơn rét run. Đau ngực.

Áp xe phổi mạn tính có thể có dấu hiệu ngón tay dùi trống.

Khám phổi: gõ đục, nghe phổi nhiều ran ẩm có thể có tiếng cọ màng phổi, có thể thấy tiếng thổi ống, thổi hang nếu ổ áp xe phổi lớn. Nếu có biến chứng tràn mủ màng phổi thì có dấu hiệu tràn dịch màng phổi hoặc tràn dịch- tràn khí màng phổi.

III. Cận lâm sàng

X quang phổi chuẩn

  • Mới đầu có hình ảnh khí-nước trong đám đông đặc.
  • Thông thường áp xe phổi có một thành dầy trong lòng áp xe có mực nước ngang. Áp xe thường có đường kính 4-6 cm. Có khi có nhiều ổ áp xe với nhiều mực nước khác nhau.
  • Cần chụp phim nghiêng để xác định vị trí trước sau của ổ áp xe và phân biệt túi mủ màng phổi với ổ áp xe lớn ở ngoại vi. Nếu là túi mủ màng phổi thì mức nước ngang trên phim thẳng ngắn hơn mức nước ngang trên phim nghiêng, còn nếu là ổ áp xe lớn ở ngoại vi thì mức nước ngang trên phim thẳng và phim nghiêng bằng nhau.

Chụp cắt lớp vi tính

  • Chụp cắt lớp vi tính ngực cho phép xác định rõ vị trí, số lượng ổ áp xe phổi. Các hình ảnh tổn thương có thể gặp bao gồm
  • Hình mức nước – hơi, với thành dày. Trên phim chụp cho phép xác định chính xác đường kính ổ áp xe.
    Xác định chẩn đoán ổ áp xe phổi nhỏ không thấy trên phim chụp phổi thẳng, nghiêng.
  • Tình trạng nhu mô phổi, màng phổi xung quanh ổ áp xe: tổn thương như mô phổi, tràn dịch màng phổi kèm theo…

Bệnh phẩm làm chẩn đoán xác định vi khuẩn học

  • Lấy đờm, mủ của bệnh nhân khạc ra.
  • Chọc hút mủ ổ áp xe qua thành ngực; chọc hút dịch màng phổi hoặc mủ mảng phổi.
  • Soi phế quản ống mềm lấy bệnh phẩm (đờm mủ) và còn để tìm tổn thương kết hợp.
  • Cấy máu.

Xét nghiệm khác: Theo giảng viên Cao đẳng Xét nghiệm Hà Nội các xét nghiệm khác cần làm như sau

  • Công thức máu: bạch cầu tăng cao (trên 15000) tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao.
  • Tốc độ máu lắng tăng cao.
  • Nếu nghĩ đến nhiễm trùng huyết thì có thể cấy máu
  • Nếu nghĩ đến áp xe phổi do amíp thì làm phản ứng miễn dịch huỳnh quang để tìm kháng thể kháng Entamoeba histolitica và làm thêm siêu âm gan để tìm ổ áp xe gan do amíp.

IV. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng: khởi đầu đột ngột và có các triệu chứng sốt, ho, khạc đờm mủ, ộc mủ, đờm và hơi thở thối. Khám thực thể có hội chứng đông đặc phổi, hội chứng hang, hoặc chỉ nghe thấy ran ẩm, nổ.

Chụp X quang phổi: hình ổ áp xe với thành dày. Có thể thấy hình tràn dịch màng phổi.

Công thức máu có bạch cầu tăng, máu lắng tăng.

Chẩn đoán phân biệt

Ung thư phổi áp xe hoá: hình hang thành dầy bên trong lồi lõm mấp mô, xung quanh có hình tua gai ít khi có mức nước ngang

Kén hơi phổi bội nhiễm: có hội chứng nhiễm khuẩn khạc mủ, XQ có hình ảnh mức nước hơi một hoặc hai bên phổi. Sau khi điều trị hết nhiễm khuẩn hình kén hơi vẫn còn

Giãn phế quản hình túi cục bộ: bệnh nhân có tiền sử ho khạc đờm nhiều, lâu ngày, hoặc ho ra máu, nghe phổi có ran ẩm tồn tại lâu . Hình ảnh XQ phổi có nhiều ổ sáng hình mờ không đều

Phân biệt áp xe phổi với hang lao: Về lâm sàng lao phổi tiến triển từ từ có sốt về chiều, ho khạc đờm, ho ra máu, gầy sút cân, khó thở. Về XQ, lao thường ở thuỳ trên, có thể ở hai bên phổi, đường kính của hang từ 2-4 cm ít khi lớn hơn. Dạng hang hình trái xoan, méo mó xung quanh có hình thâm nhiễm, có tổn thương xơ, vòm hoành bị co kéo. Ngoài tổn thương hang thường có các nốt thâm nhiễm phối hợp. Về xét nghiệm: có BK(+) trong đờm, phản ứng Mantoux(+). Bạch cầu trong máu ngoại vi không cao. Điều trị bằng thuốc chống lao thấy lâm sàng tiến triển tốt, bệnh nhân tăng cân.

V. Điều trị áp xe phổi

1. Điều trị nội khoa

Kháng sinh

Nguyên tắc: Cần dùng kháng sinh sớm, theo đường tĩnh mạch, liều cao ngay từ đầu, ngay sau khi lấy được bệnh phẩm để chẩn đoán vi sinh vật. Dùng ít nhất từ 2 kháng sinh trở lên. Thay đổi kháng sinh dựa theo diễn biến lâm sàng và kháng sinh đồ nếu có. Thời gian dùng kháng sinh ít nhất 4 tuần.
Các loại kháng sinh có thể dùng như sau:Penicillin G: 10 – 20, có thể tới 50 triệu đơn vị/ ngày tuỳ theo tình trạng bệnh nhân, pha truyền tĩnh mạch chia 3- 4 lần /ngày, kết hợp với 1 kháng sinh nhóm aminoglycoside:

Gentamycin 3-5mg/kg/ngày tiêm bắp 1 lần hoặc amikacin 15mg/kg/ngày tiêm bắp 1 lần hoặc tobramycin

Nếu nghi vi khuẩn tiết beta lactamase thì thay Penicillin G bằng amoxicillin + acid clavunalic (Augmentin) hoặc Ampicillin + Sulbactam, liều dùng 3-6 g/ngày.

Nếu nghi ngờ áp xe phổi do vi khuẩn Gram âm thì dùng cephalosporin thế hệ 3 như cefotaxime 4-6 g/ngày, ceftazidime 3-4 g/ngày, kết hợp với kháng sinh nhóm aminoglycoside nêu trên với liều tương tự.

Nếu nghi ngờ áp xe phổi do vi khuẩn yếm khí thì kết hợp nhóm beta lactame+ acid clavunalic với metronidazole 1000-1500 mg/ngày, truyền tĩnh mạch chia 2-3 lần /ngày, hoặc penicillin G 20 – 50 triệu đơn vị kết hợp metronidazole 1000 – 1500 mg/ngày truyền tĩnh mạch, hoặc hoặc penicillin G 20 – 50 triệu đơn vị kết hợp clindamycin 1800mg/ngày tiêm tĩnh mạch.

Nếu nghi ngờ áp xe phổi do tụ cầu: oxacillin (Bristopen) 6 – 12g/ngày hoặc vancomycin 1-2g/ngày, kết hợp với amikacin khi nghi do tụ cầu kháng thuốc.

Nếu áp xe phổi do a míp thì dùng metronidazole 1000-1500 mg/ngày, truyền tĩnh mạch chia 2-3 lần /ngày.

Dẫn lưu ổ áp xe

Dẫn lưu tư thế, vỗ rung lồng ngực: Dựa vào phim chụp X quang phổi thẳng nghiêng chọn tư thế bệnh nhân để dẫn lưu tư thế, vỗ rung lồng ngực. Dẫn lưu tư thế nhiều lần /ngày, để BN ở tư thế sao cho dẫn lưu tốt nhất ổ áp xe, lúc đầu trong thời gian ngắn vài phút, sau kéo dài dần thời gian và kết hợp với vỗ rung. Vỗ rung mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần lúc đầu 5 phút sau tăng dần đến10- 20 phút.

Có thể dùng soi phế quản ống mềm để hút mủ ở phế quản dẫn lưu ổ áp xe. Soi phế quản ống mềm còn giúp phát hiện các tổn thương tắc nghẽn phế quản và gắp bỏ dị vật phế quản nếu có.

Chọc dẫn lưu mủ qua da: áp dụng đối với những ổ áp xe phổi ở ngoại vi, ổ áp xe không thông với phế quản; ổ áp xe ở sát thành ngực hoặc dính với màng phổi. Sử dụng ống thông cỡ 7-14F, đặt vào ổ áp xe để hút dẫn lưu mủ qua hệ thống hút liên tục.

2. Các điều trị khác

  • Đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân.
  • Đảm bảo cân bằng nước điện giải, thăng bằng kiềm toan.
  • Giảm đau, hạ sốt.

3. Điều trị phẫu thuật

Chỉ định mổ cắt phân thuỳ phổi hoặc cả 1 bên phổi tuỳ theo mức độ lan rộng cho những trường hợp giãn phế quản khu trú một bên phổi với chức năng hô hấp cho phép:

Ổ áp xe > 10cm.

Áp xe phổi mạn tính: các triệu chứng (sốt, ho khạc đờm mủ, có thể ho máu, bạch cầu tăng) tồn tại dai dẳng. Dẫn lưu mủ qua đường phế quản hoặc chọc dẫn lưu mủ qua da kết hợp dùng kháng sinh không đạt kết quả.

Áp xe phổi mạn tính

  • Ho ra máu tái phát, nặng.
  • Áp xe phối hợp với giãn phế quản khu trú nặng.
  • Ung thư phổi ápxe hóa (chỉ định mổ ung thư).
  • Có biến chứng dò phế quản – khoang màng phổi.

VI. Tiến triển và tiên lượng

Tiến triển

Nếu điều trị có hiệu quả thì sốt giảm xuống từ từ, các dấu hiệu lâm sàng và xquang sẽ xoá dần. Nếu mủ không được dẫn lưu tốt thì ít khi sốt dưới hai tuần lễ. Khoảng 50% áp xe phổi bình phục sau 4 tuần, số còn lại sau 6-8 tuần. Hội chứng đông đặc còn tồn tại 3 tháng sẽ xoá hết nếu được điều trị khỏi. Sau 3 tháng không khỏi thì trở thành áp xe mạn tính

Tiên lượng

Tỉ lệ tử vong do áp xe phổi từ 5-15%

Tiên lượng xấu khi:

  • Kích thước ổ áp xe trên 6cm. Có nhiều ổ áp xe.
  • Bệnh nhân đến khám muộn sau 8 tuần.
  • Ngưòi già, người suy kiệt, giảm miễn dịch.
  • Áp xe do tụ cầu vàng hoặc do vi khuẩn Gr âm (Klebsiella Pneumonia, Pseudomonas Aeruginosa).
  • Áp xe phổi do vi khuẩn kháng thuốc.
  • Áp xe phổi không có đường dẫn lưu tự nhiên.
  • Áp xe phổi vỡ vào khoang màng phổi, trung thất.

Biến chứng

  • Gây mủ màng phổi
  • Ho ra máu
  • Có trường hợp điều trị bằng kháng sinh, ổ áp xe hết vi khuẩn nhưng có thể tồn tại một hang dưói dạng bong bóng, nó có thể nhiễm khuẩn trở lại hoặc phát triển nấm Aspergilus Fumigatus ở trong lòng hang để tạo nên một u nấm.
  • Khi áp xe nguyên phát thông với một phế quản nhỏ, thành phế quản bị phá huỷ, tạo nên giãn phế quản hình túi.
  • Vi khuẩn đi theo đường tĩnh mạch gây áp xe não nay rất hiếm gặp.
  • Thoái hoá bột.

VII. Phòng bệnh

  • Vệ sinh răng miệng, mũi, họng.
  • Điều trị tốt các nhiễm khuẩn răng, hàm, mặt, tai, mũi, họng, nhất là các thủ thuật ở các vùng này phải tránh các mảnh tổ chức rơi vào đường phế quản.
  • Khi cho bệnh nhân ăn bằng sông phải theo dõi chặt chẽ, tránh không để sặc thức ăn.
  • Phòng ngừa sặc các dị vật vào đường thở

 Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Giãn Phế Quản – Bệnh Nguyên Và Điều Trị

Giãn phế quản là tình trạng các phế quản của phổi bị giãn ra khó hồi phục, đặc biệt là các phế quản trung bình. Giãn phế quản gặp ở nam 4 lần nhiều hơn ở nữ.

    Giãn phế quản thường gặp ở nam giới hơn.

    I. Bệnh nguyên

    1. Mắc phải

    Hiện nay được xem như là thường gặp nhất; những thể này có thể khu trú hay lan tỏa.

    Thể khu trú

    Những nguyên nhân gây hẹp phế quản một phần: gây nên sự ứ dịch tiết dẫn đến nhiễm trùng và phế quản bị giãn ra, đôi khi trong 2 – 3 tuần lễ. Những nguyên nhân này thường chỉ được phát hiện nhờ nội soi phế quản, trước tiên là khối u có thể lành tính hay ác tính, có thể là vật lạ nhất là đối với trẻ em, có thể là lao bởi những lỗ dò hay u hạt từ một lao sơ nhiễm tiến triển hay trên di chứng calci hóa.

    Áp xe phổi: di chứng sẹo xơ hay trên một áp xe phổi mạn tính.

    Aspergillose phế quản: ít gặp hơn nhưng rất đặc biệt là có sự phối hợp với những biểu hiện tăng nhạy cảm type I và type II (tìm những chất kết tủa kháng aspergillus), có thể có tăng bạch cầu ái toan và khu trú ở phế quản rất gần gốc, như vậy chỉ tổn thương các phế quản lớn còn các phế quản trước tận cùng còn tốt (bệnh Hinton).

    Thể lan tỏa

    Di chứng của các bệnh phế quảnphổi cấp nặng trong thời kỳ thiếu niên: có thể bị quên lúc khởi đầu hội chứng đa tiết phế quản – phổi. Sởi và ho gà là 2 bệnh thường gặp nhất, những bệnh nhiễm siêu vi nặng nhất là do Arbovirus là những nguyên nhân gây nên di chứng giãn phế quản.

    Bệnh nhầy nhớt (bệnh xơ tụy tạng nhầy – kén): là những bệnh bẩm sinh di truyền; trong những bệnh này có rối loạn về tiết dịch do sự thanh lọc bị chậm lại, gây nên những nhiễm trùng phế quản – phổi tái phát dẫn đến những thể giãn phế quản rất nặng với suy hô hấp mạn và chết trước thời kỳ trưởng thành.

    2. Bẩm sinh

    Giãn phế quản thường là lan tỏa, rất ít gặp.

    Bệnh đa kén phổi: thường phối hợp với đa kén thận, tụy và gan.

    3. Suy giảm miễn dịch

    Suy giảm miễn dịch thể dịch: Suy giảm toàn thể hay không có (globuline máu, suy giảm chọn lọc IgA huyết thanh hay ngay cả chỉ suy giảm IgA tiết.

    Suy giảm miễn dịch tế bào: do tổn thương sự thanh lọc đó là bệnh lông bất động; bất thường này thường nằm trong hội chứng Kartagener (giãn phế quản phối hợp với đảo phủ tạng và viêm xoang sàng – xoang hang).

    II. Giải phẫu bệnh

    1. Đại thể

    Những phế quản lớn không bị tổn thương, do đó nội soi không thể phát hiện được; những tổn thương bắt đầu ở phần phân nhánh thứ 4 và lan ra ít ở phần phân nhánh thứ 8. Phế quản tận cùng bị tổn thương hoặc bị chột thường gặp nhất, chủ mô phổi không được hô hấp sẽ gây nên hội chứng hạn chế, giãn phế quản được gọi là tận cùng; hoặc phế quản tận cùng còn thông với những phế quản xa hơn, chủ mô phổi còn được hô hấp, giãn phế quản được gọi là trước tận cùng.

    Trong giãn phế quản, có nhiều dạng tổn thương về giải phẫu khác nhau:

    • Hình túi, hình bóng hay hình giã kén gặp trong giãn phế quản trước tận cùng.
    • Hình chuỗi hạt và hình trụ gặp trong giãn phế quản trước tận cùng.

    Thường có những bất thường phối hợp:

    • Viêm phế quản trong những vùng lân cận gây nên hội chứng tắc nghẽn phối hợp với hội chứng hạn chế do giãn phế quản.
    • Gia tăng mạng lưới mạch máu hệ thống, những tiểu động mạch trở nên ngoằn nghèo, dẫn máu theo chiều ngược dòng do những nối tắt động mạch – động mạch gọi là động mạch hóa tức là tĩnh mạch phổi được lấy máu trong động mạch phổi phía bên bị bất thường động mạch phế quản.

    2. Vi thể

    Tổn thương niêm mạc

    Dưới một lớp biểu bì gần như bình thường lúc đầu, sau đó bị dị sản và cuối cùng bị hủy hoại, có một màng đệm dày lên và thâm nhiễm trùng tế bào viêm và nhiều mạch máu được tân tạo từ mạch máu phế quản. Trong một vài thể bệnh, những tổn thương viêm với sự phì đại lớp niêm mạc và tăng tiết trội lên, gây đa tiết phế quản trên lâm sàng. trong một số trường hợp khác, lớp niêm mạc bị teo lại với sự giảm những tuyến thanh dịch – nhầy và xơ hóa liên tuyến nang, như vậy không có sự tăng tiết. Hai loại này thường phối hợp trên cùng một bệnh nhân.

    Tổn thương dưới niêm mạc

    Mô liên kết bị tổn thương phối hợp với sự giảm và sự sắp xếp lộn xộn những sợi đàn hồi và sợi cơ; bị cắt đoạn bởi sợi collagen tân tạo và có hình giả u cơ.

    Tổn thương sụn

    Đó là tổn thương thoái hóa sụn được thay thế bởi những mô calci hóa háy cốt hóa hay bởi sự xơ hóa collagen; những phế quản mất đi cái cốt nâng đỡ và tính đàn hồi.

    Tổn thương phế nang

    Góp phần quan trọng trong rối loạn chức năng hô hấp và trong sự trao đổi khí oxy ở phổi, những tổn thương này rất thay đổi tùy người bệnh, tùy vị trí ở cùng một bệnh nhân, đó là viêm phổi lưới teo hay phì đại, viêm phế nang xuất huyết, xẹp phổi.

    III. Triệu chứng lâm sàng

    1. Triệu chứng chức năng

    Khạc đàm

    • Gặp 80 % trường hợp giãn phế quản.
    • Thời điểm: nhiều nhất vào buổi sáng, đôi khi rãi đều trong ngày.
    • Lượng: thay đổi tùy theo từng bệnh nhân, thường là nhiều, khoảng từ 20 –
    • 100 ml / ngày, hay có thể nhiều hơn trong đợt cấp; tuy nhiên có những thể khô, không khạc đàm.
    • Mùi vị: lạt, mùi thạch cao, đôi khi có mùi hôi; nếu để lắng sẽ có 4 lớp từ trên xuống dưới là: đàm bọt, đàm thành dịch nhầy trong, đàm mũi nhầy, đàm mủ đặc.
    • Phân tích: ít có vì nhiễm trùng thường kèm theo.

    Ho

    Là triệu chứng thường kèm theo khạc đàm.

    Ho ra máu

    Quan trọng, gặp trong 8 % trường hợp, có thể kèm theo đàm hay đôi khi đơn độc. Ho ra máu có thể dưới hình thức tia máu màu đỏ hơn là đen chứng tỏ có đợt viêm hay ho ra máu có số lượng nhiều hơn màu đỏ chói tương ứng với sự chảy máu hệ thống được xem như biến chứng.

    Khó thở

    Ít gặp, mặc dù một số giãn phế quản chỉ được chẩn đoán ở giai đoạn suy hô hấp mạn.

    Những biểu hiện khác

    Những nhiễm trùng phổi – phế quản cấp tái phát nhiều lần

    Với sốt vừa 38º – 38º5, có 2 đặc điểm đó là vị trí nhiễm trùng cố định gợi ý có bất thường bên dưới, tổng trạng thường không thay đổi.

    Tràn dịch màng phổi thanh dịch – sợi hơn là mủ

    2. Khám lâm sàng

    Hỏi bệnh

    Chính xác những tình huống phát hiện bệnh, thời gian bị bệnh; trên thực tế, thường không chính xác, có thể trong thời kỳ thiếu niên bệnh nhân bị bệnh ho gà hay sởi nặng. Hỏi bệnh để biết tính chu kỳ đa tiết phế quản, tần suất những đợt bội nhiễm nhất là vào mùa đông và liên quan đến những nhiễm trùng mũi – họng (viêm mũi, viêm xoang, viêm amiđan); hỏi bệnh để biết đến tiền sử cá nhân và gia đình, hút thuốc lá và nghề nghiệp hiện tại và quá khứ.

    Khám thực thể

    Khám phổi: có thể bình thường ngoài đợt cấp, có thể phát hiện ran ngáy, ran rít, ran ẩm to hạt. Khi bị bội nhiễm có thể nghe được ran nổ khô hay ran nổ ướt nhỏ hạt hay hội chứng tràn dịch màng phổi.

    Ngón tay hình dùi trống.

    Trong những thể tiến triển, có hai biến chứng nặng đó là suy hô hấp mạn và tâm phế mạn.

    3. Cận lâm sàng

    • Đàm
    • Tế bào
    • Có nhiều tế bào biểu mô phế quản, có nhiều bạch cầu đa nhân trung tính thoái hóa và chất nhầy, không có sợi đàn hồi.
    • Vi trùng: hay gặp nhất là Haemophilus influenza và phế cầu, ngoài ra có thể gặp vi trùng gram âm như Pseudomonas aeruginosa; vi trùng kỵ khí; ngoài ra phải tìm BK.
    • Phim phổi
    • Phim chuẩn

    Thường có hình mờ dạng lưới đi từ rốn đến co hoành; đôi khi có hình ảnh mờ một cách có hệ thống nhiều nhất ở thùy giữa và thùy dưới phổi; đôi khi có hình ảnh “hoa hồng nhỏ” giống như những kén khí chồng lên nhau, có thể có hình ảnh mức nước khí trong giai đoạn ứ mủ.

    Chụp cắt lớp tỉ trọng

    Cho phép phát hiện dễ dàng phần lớn các giãn phế quản thể hình trụ. Hiện nay trong thực tế ít chụp nhuộm phế quản; chụp cắt lớp tỉ trọng giúp chẩn đoán chính xác nhất là ở những bệnh nhân bị suy hô hấp mạn.

    Thăm dò chức năng hô hấp

    • Đo chức năng hô hấp: cho thấy có sự kết hợp cả hai hội chứng hạn chế và tắc nghẽn.
    • Khí máu
    • Chỉ rối loạn trong thể nặng tức là trong giãn phế quản có suy hô hấp mạn và tâm phế mạn, có thể có PaO2 giảm, PaCo2 tăng, SaO2 giảm.
    • Thăm dò phế quản
    • Nội soi phế quản
    • Để xác định những phế quản bị viêm, đồng thời có thể lấy mủ để khảo sát vi trùng.
    • Chụp nhuộm phế quản

    Ít sử dụng từ khi có chụp cắt lớp tỉ trọng, tuy nhiên vẫn cần thiết trước khi quyết định phẫu thuật; chụp nhuộm phế quản cho thấy các loại giãn phế quản sau đây:

    • Hình trụ hay gặp nhất.
    • Hình tĩnh mạch trướng hay hình tràng hạt.
    • Hình bóng hay túi.
    • Thường có sự phối hợp nhiều loại giãn phế quản.

    Cũng gặp nhiều loại điển hình như cây chết không có phân nhánh tiểu phế quản – phế nang, những phế quản bị xẹp lại trong một đoạn bị xẹp phổi.

    Vị trí: những phế quản thường bị thương tổn nằm giữa phế quản phân nhánh thứ 4 và thứ 8. Trong những thể lan tỏa, bệnh trội ở những thùy dưới (đoạn cạnh tim, đoạn tận đáy), thùy giữa và thùy lười. Ngoài ra có những thể khu trú một bên hay hai bên.

    VI.Tiến triển

    1. Thể nhẹ

    Những đợt bội nhiễm xảy ra không thường xuyên; bệnh chỉ giới hạn một vùng, không lan ra chủ mô phổi, không bị suy hô hấp.

    2. Thể nặng

    Nhiễm trùng xảy ra thường xuyên, phải sử dụng kháng sinh, sau nhiều năm tiến triển sẽ xuất hiện suy hô hấp mạn và tâm phế mạn; bệnh nhân có thể tử vong sau vài năm.

    3. Biến chứng

    • Viêm phổi thùy, phế quản phế viêm, áp xe phổi, tràn dịch màng phổi.
    • Lao phổi, áp xe não bệnh xương khớp phì đại do phổi, ít gặp.
    • Ho ra máu thường gặp; có thể đàm dính máu hay ho ra máu toàn số lượng nhiều.

    V. Điều trị

    1. Điều trị nội khoa

    Điều trị trong những đợt nhiễm trùng phế quản – phổi như phế viêm hay áp xe phổi.

    • Dẫn lưu tư thế

    Là một phương pháp điều trị rất cần thiết, quan trọng và bắt buộc phải thực hiện cho bệnh nhân để mủ có thể thoát ra ngoài, thực hiện 3 lần /ngày, mỗi lần khoảng 10 phút.

    • Vận động liệu pháp

    Rất cần thiết để bệnh nhân có thể khạc đàm ra càng nhiều càng tốt.

    • Kháng sinh

    Tại tuyến trung ương thì phải cấy đàm và làm kháng sinh đồ để chọn lựa kháng sinh thích hợp.

    Tuy nhiên trong khi chờ đợi kết quả cấy đàm hay tại tuyến cơ sở, theo y văn thì những vi trùng thường gặp là Streptococcus pneumoniae, Hemophilus influenza, Mycoplasma pneumoniae, Legionella pneumophila; do đó phải dùng ngay kháng sinh, thường dùng là:

    • Céfalexine, 500 mg, 3 viên / ngày chia đều 3 lần có thể phối hợp hay không với một thuốc thuộc nhóm Fluoroquinolones như Ciprofloxacine (Quintor), 500 mg, 3 viên / ngày chia đều 3 lần hay Ofloxacine (Zanocin), 200 mg, 2 viên / ngày chia đều 2 lần.
    • Céfadroxil (Oracéfal), 500 mg, 3 viên / ngày chia đều 3 lần.
    • Roxithromycine (Rulid), 150 mg, 2 viên / ngày chia đều 2 lần.

    Nếu nặng thì phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trung ương để điều trị, kháng sinh phải được dùng bằng đường ngoài tiêu hóa tức là đường tiêm thịt hay tiêm tĩnh mạch hay chuyền tĩnh mạch. Người ta có thể dùng một loại Céphalosporine thế hệ 3 như Céfotaxime (Claforan), lọ 1 g, tiêm thịt 2 g / ngày chia đều 2 lần hay Ceftriaxone (Rocephine) lọ 1 g, tiêm tĩnh mạch 1 lần 2 g / ngày phối hợp với một Aminoside như Amikacine (Amiklin) lọ 500 mg, tiêm thịt 15 mg / kg / ngày 1 làn hay chia đều 2 lần, nếu có đàm hôi tức là có bội nhiễm vi khuẩn kỵ khí thì phải dùng thêm Métronidazol, lọ 500 mg / 100 ml, 3 lọ / ngày chuyền tĩnh mạch chia đều 3 lần.

    2. Điều trị triệt căn

    • Các ổ nhiễm khuẩn tai mũi họng: bằng các kháng sinh thích hợp.
    • Điều trị ho ra máu
    • Thường khó điều trị vì không có thuốc điều trị đặc hiệu.
    • Nếu nhẹ có thể điều trị tại tuyến cơ sở thường dùng Adrenoxyl, ống 1.500 μg,
    • 3 – 4 ống tiêm thịt chia đều 3 – 4 lần.
    • Nếu nặng thì phải chuyển ngay lên tuyến trung ương, có thể dùng Octréotide (Sandostatine), ống 50 μg, 100 μg, tiêm dưới da 3 ống loại 50 μg / ngày chia đều 3 lần và phải theo dõi sát tình trạng ho ra máu vì loại ho ra máu này rất khó cầm, nếu vượt khả năng điều trị nội khoa thì phải hội chẩn với ngoại khoa để can thiệp phẫu thuật cầm máu.

    3. Điều trị ngoại khoa

    • Thể khu trú một bên

    Chỉ định phẫu thuật là tốt nhất.

    • Thể có tổn thương hai bên

    Nếu tổn thương còn khu trú, ổn định và đối xứng thì có thể cắt hai bên.

    Nếu tổn thương không đối xứng thì cắt một bên chính.

    • Thể lan tỏa

    Thường không phẫu thuật, có thể chỉ cắt những tổn thương chính.

    Phẫu thuật có thể áp dụng là cắt một vùng, cắt doạn, cắt một thùy hay một lá phổi.

    4. Điều trị dự phòng

    • Tiêm vacxin phòng ngừa cảm cúm nếu có.
    • Nếu không có vacxin thì khi bị cảm cúm thường xảy ra vào mùa thu đông thì phải dùng ngay kháng sinh bằng đường uống như đã nêu trong phần điều trị để dụ phòng nhiễm trùng phế quản – phổi.
    • Vệ sinh răng miệng và tai mũi họng.
    • Chuyển ngay lên tuyến trung ương khi bệnh nhân có biến chứng ho ra máu nặng bằng xe cấp cứu có trang bị.

    Nguồn: Cao đẳng Y Dược

    Chuyên mục
    Bệnh Học Chuyên Khoa

    Viêm Phổi – Dấu Hiệu Nhận Biết

    Bệnh truyền nhiễm là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm là vi rút, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm có khả năng gây bệnh truyền nhiễm.

    Viêm phổi do virus

    Gồm các bệnh lý do: Virus, vi khuẩn, ký sinh trùng

    1. Viêm phổi do Virus:

    ARDS – các điểm chủ yếu:

    • Chẩn đoán:

    Suy hô hấp cấp tính

    X quang: tổn thương phổi lan toả 2 bên

    PCWP < 18 mmHg

    PaO2/FiO2 < 300 (ALI), < 200 (ARDS)

    • Sinh lý bệnh:

    Tăng tính thấm mao mạch phổi

    Giảm compliance phổi

    Tăng shunt phải-trái

    Các đơn vị phổi tổn thương không đồng nhất

    Tăng áp động mạch phổi

    • Lâm sàng:

    Khó thở tăng ần – Nhịp tim nhanh, thở nhanh

    • Tìm yếu tố nguy cơ Điều trị:

    TKNT với Vt 6 – 8 ml/kg

    Duy trì Pplateau < 30 cmH2O nếu có thể

    Dùng FiO2 thấp nhất mà vẫn có thể duy trì được SaO2 thoả đáng.

    Điều chỉnh PEEP để có thể đưa FiO2 xuống dưới 0,50.

    Chăm sóc, nuôi dưỡng đường tiêu hoá, điều trị nhiễm khuẩn nếu có.

    • Biến chứng:

    – Nhiễm khuẩn bệnh viện.

    – Tràn khí màng phổi.

    – Suy đa phủ tạng.

    – Xơ phổi.

    Virút cúm đã gây nhiều vụ dịch lớn trên thế giới với tỷ lệ tử vong cao. Có 3 týp virus là A, B và C trong đó virus cúm A và B hay gây bệnh cho người. Các chủng virus có thể thay đổi hàng năm.Virus cúm týp A gây bệnh cho lòai chim (cúm chim), nếu nó xảy ra ở các gia cầm thì gọi là cúm gia cầm. Hiện nay đã có nhiều nước trên thế giới (trong đó có nước ta) có người mắc bệnh do nhiễm virus cúm týp A H5 N1, đây là virus gây viêm phổi có độc lực mạnh và có tỷ lệ tử vong rất cao. Hiện nay chưa có bằng chứng về sự lây truyền trực tiếp từ người sang người của virus cúm A H5 N1, nhưng WHO lo ngại khả năng tái tổ hợp giữa phân týp cúm A H5N1 của gà với các phân týp A như H3N2, H1N1 đang lưu hành trên người, hoặc có thể với các phân týp cúm A của lợn… để tạo ra những phân týp cúm A mới vừa có độc lực mạnh và có thể lan truyền trên người hoặc trên các động vật có vú mạnh hơn.

    2. Chẩn đoán:

    • Yếu tố dịch tễ:

    Tiếp xúc với gia cầm bị bệnh trong vòng 2 tuần trước đó ( nuôi, buôn bán,vận chuyển giết mổ ăn thịt gia cầm bị bệnh, ăn tiết canh… hoặc sống ở vùng có dịch cúm gia cầm.

    Tiếp xúc gần với người bệnh đã xác định cúm hoặc người bệnh tử vong vì viêm phổi chưa rõ nguyên nhân.

    • Lâm sàng:

    Diễn biến cấp tính, có thể có các biểu hiện sau.

    Dấu hiệu nhiễm trùng: Sốt trên 38oC, có thể rét run.

    • Các triệu chứng về hô hấp:

    Ho: thường ho khan, đau ngực, ít gặp triệu chứng viêm long đường hô hấp trên.

    Khó thở, thở nhanh, tím tái.

    Nghe phổi có ran nổ, ran ẩm, có thể dẫn đến hội chứng suy hô hấp tiến triển (ARDS).

    Triệu chứng tuần hòan: nhịp tim nhanh đôi khi có sốc.

    Các triệu chứng khác: đau đầu, đau cơ, tiêu chảy, rối lọan ý thức, suy đa tạng.

    • Xét nghiệm:

    X quang phổi: tổn thương thâm nhiễm lan tỏa 1 bên hoặc 2 bên, tiến triển nhanh, cần chụp phổi 1- 2 lần trong ngày ở giai đọan cấp.

    Xét nghiệm máu:

    Số lương BC bình thường hoặc giảm.

    Khí máu: giảm oxy máu khi bệnh tiến triển nặng, có thể giảm nhanh dưới 60 mmHg. Tỷ lệ PaO2// FiO2 giảm nhanh dưới 300 khi có tổn thương phổi cấp, dưới200 khi có suy hô hấp tiến triển.

    Chẩn đoán vi sinh:

    Virus: Lấy bệnh phẩm, ngóay họng sâu, lấy dịch tỵ hầu qua đường mũi, lấy dịch phế quản gửỉ xét nghiệm VSV.

    Làm RT- PCR để xác định cúm A/ H5.

    Vi khuẩn: Cấy dịch màng phổi, dịch nội khí quản và cấy máu khi có nghi ngờ bội nhiễm.

    Tiêu chuẩn chẩn đoán:

    Nghi ngờ khi có đủ các tiêu chuẩn sau:

    Sốt trên 38oC.

    Có một trong các triệu chứng về hô hấp: ho, khó thở.

    Có các yếu tố dịch tễ.

    • Chẩn đoán có thể:

    Có tiêu chuẩn chẩn đoán nghi ngờ.

    Có ít nhất 1 bằng chứng xét nghiệm gợi ý viêm phổi do virus cúm:

    Hình ảnh x quang diễn biến nhanh phù hợp với virus cúm.

    Số lượng BC bình thường hoặc giảm.

    • Chẩn đoán xác định:

    Xét nghiệm virus dương tính với cúm A/H5.

    Phân độ lâm sàng: Dựa chủ yếu vào x quang phổi và khí máu

    Nặng: Khó thở, tím, SpO2< 88%, PaO2< 60 mmHg.

    X quang phổi: Thâm nhiễm lan tỏa 2 bên. Có thể suy đa tạng, sốc.

    Trung bình: Khó thở, tím, SpO2< 88% – 92%, PaO2 từ 60 đến 80mmHg.

    X quang phổi: Thâm nhiễm lan tỏa 1 bên hoặc khư trú 2 bên.

    Nhẹ: Không khó thở, SpO2>92%, PaO2>80 mmHg.

    X quang phổi: Thâm nhiễm khư trú 1 bên hoặc không rõ rệt. f. Điều trị:

    3 Nguyên tắc chung:

    Bệnh nhân nghi ngờ viêm phổi phải được cách ly

    – Bệnh nhân nghi ngờ phải được cách ly.

    – Dùng thuốc kháng virus (Oseltamivir) càng sớm càng tốt ngay cả những trường hợp nghi ngờ viêm phổi do virus.

    – Hồi sức hô hấp là cơ bản.

    – Điều trị suy đa tạng (nếu có).

    – Điều trị suy hô hấp cấp:

    – Nằm đầu cao 300.

    – Thở oxy qua gọng mũi: 1- 5 lít /phút sao cho SpO2>90%.

    – Thở qua mặt nạ đơn giản: 6- 12 lít/ phút khi thở oxy qua gọng mũi không giữ được SpO2>90%.

    – Thở oxy qua mặt nạ không hít lại: lưu lượng oxy đủ cao để không xẹp túi khí ở thì thở vào, khi mặt nạ đơn giản không hiệu quả.

    – Thở CPAP (continuous positive airway pressure: áp lực đường thở dương liên tục): khi giảm oxy máu không cải thiện bằng các biện pháp thở oxy, SpO2<90%.

    – Chọn mặt nạ phù hợp.

    – Bắt đầu thở với CPAP= 5 cm H20.

    – Điều chỉnh mức CPAP theo lâm sàng với một lần điều chỉnh để duy trì SpO2>90%, tối đa là 10 cm H20.

    Thông khí nhân tạo:

    Chỉ định: Thở CPAP hoặc thở oxy không cải thiện được tình trạng thiếu oxy máu (SpO2<90%, với CPAP =10 cm H20).

    Người bệnh có dấu hiệu xanh tím, thở nhanh nông.

    Nguyên tắc thông khí nhân tạo:

    Mục tiêu: SpO2>92% với Pi O2 0,6. Nếu không đạt được mục tiêu trên chấp nhận ở mức SpO2>85%.

    Thông khí nhân tạo không xâm nhập BiPAP:

    Chỉ định khi bệnh nhân suy hô hấp còn tỉnh, ho khạc tốt, hợp tác tốt.

    Thông khí nhân tạo xâm nhập: Khi người bệnh suy hô hấp nặng, diễn biến thành suy hô hấp tiến triển và không đáp ứng với thông khí không xâm nhập.

    Đặt phương thức thở kiểm sóat thể tích, với Vt từ 8- 10 ml/kg, tần số 14- 16 lần/ phút, I/E=1/2, PEEP= 5 và điều chỉnh FiO2 để đạt được SpO2>92%. Nếu tiến triển thành ARDS thì tiến hành thông khí nhân tạo tăng thán cho ph p.

    4. Các biện pháp hồi sức khác:

    Truyền dịch: cân bằng nước vào ra, duy trì nước tiểu1200- 1500/ 24h chú ý tránh phù phổi, duy trì CVP= 5- 6 cmH2O (không quá 6,5 cmH2O), nếu truyền qua 2 lít dịch mà HA không lên được thì phải truyền dung dịch keo. Nơi có điều kiện duy trì albumin>35g/l.

    Bệnh nhân viêm phổi phải được truyền dịch để cân băng nước

    Dùng sớm thuốc vận mạch: có thể dùng Dopamin hoặc Noradrenalin phối hợp với Dobutamin để duy trì HA tâm thu >90mmHg.

    Thăng bằng kiềm toan: đảm bảo thăng bằng kiềm toan, đặc biệt khi thông khí nhân tạo tăng thán cho phép, duy trì pH 7,2.

    Khi bệnh nhân tiến triển thành suy đa tạng, phải tiến hành điều trị phác đồ suy đa tạng (nơi có điều kiện cần lọc máu).

    5. Điều trị hỗ trợ:

    Dùng Corticosteroid; Methylprednisolon 0,5- 1mg/kg cân nặng. Hoặc dùng Depersolon 30mg 2 lần /ngày.

    Sốt: hạ sốt khi nhiệt độ>390c bằng Paracetamol.

    Đảm bảo chế độ săn sóc và dinh dưỡng: nhẹ cho ăn đường miệng, nặng cho ăn qua sonde, nếu không ăn được phải kết hợp nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch.

    Cần chống loét, vỗ dung – hút đờm rãi.

    Điều trị kháng sinh:

    Người lớn và trẻ >13t: Tamiflu (oseltamivir) 75mg 2 lần /ngày/7ngày. Uống dự phòng cho nhân viên y tế hoặc người nhà trực tiếp săn sóc: 1 viên / ngày trong 7 ngày. Có thể dùng một ks phổ rộng hoặc phối hợp 2- 3 lọai kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn bệnh viện.

    6. Tiêu chuẩn ra viện:

    – Hết sốt 7 ngày sau khi ngừng kháng sinh.

    – Xét nghiệm máu, xquang tim phổi ổn định.

    – Xét nghiệm virus A/H5 âm tính.

    Nguồn: Cao đẳng Điều dưỡng TP HCM

    Chuyên mục
    Bệnh Học Chuyên Khoa

    Xuất Huyết Não, Màng Não – Bệnh Nguyên Và Điều Trị

    Xuất huyết não – màng não hay gặp ở trẻ từ 1 – 2 tháng tuổi, đa số do thiếu Vitamin K, viêm gan. Hãy đọc bài viết dưới đây trước để phòng tránh cũng như điều trị kịp thời cho bé.

    Xuất huyết não hay gặp ở trẻ 1-2 tháng tuổi

    Bệnh nguyên xuất huyết não

    • Do chấn thương sản khoa.
    • Đầu to so với khung chậu
    • Đẻ khó
    • Đẻ nhanh quá
    • Can thiệp foorcef
    • Thai non tháng
    • Thai già tháng
    • Do hệ thống cầm máu chưa hoàn chỉnh
    • Prothrombin còn thấp vì vi khuẩn trong lòng ruột chưa tổng hợp được Vitamin K
    • Tiểu cầu còn thấp
    • Thành mạch còn mỏng
    • Đám rối quanh não thất được tăng tưới máu
    • Tổn thương thiếu oxy hoặc thiếu máu rối loạn tuần hoàn
    • Sử dụng quá liều Natribicacbonat hoạc áp lực CO2 tăng

    Điều trị xuất huyết não, màng não ở trẻ sơ sinh

    Xuất huyết não ở trẻ do thiếu vitamin K

    • Điều trị cấp cứu

    – Theo dõi ý thức, nhịp thở, mạch

    – Truyền máu 20ml/kg

    – Vitamin K 5mg/ngày x 3ngày liền

    – Giảm phù não

    + Manitol 20%: 0,5g/kg x 2lần/ngày cách 8-10 giờ, truyền nhanh tốc độ 40 giọt/phút, cho trong 2-3 ngày, sau truyền Mannitol truyền tiếp Ringer lactat 40 – 50ml/kg/ngày

    + Dexamethason 0,4mg/kg x 2 lần/ngày (tĩnh mạch)

    + Nếu thóp căng phồng: Lasix 1,5 – 2mg/kg, nhắc lại sau 8 – 10 giờ (tĩnh mạch)

    – Thở oxy nếu có cơn ngừng thở

    – Chống co giật: phenobarbital 6 – 10mg/kg ,hạn chế dùng seduxen vì gây ức chế hô hấp

    – Đảm bảo dinh dưỡng: ăn qua sonde dủ số lượng, chất lượng

    Tiên lượng

    – Tử vong 7-10%

    – Khỏi hoàn toàn :60%

    – Di chứng : 30 – 40% (động kinh, bại não, não úng thủy)

    Dự phòng

    – Cho trẻ bú mẹ

    – Mẹ có chế độ dinh dưỡng đầy đủ, không kiêng mỡ.

    Chuyên mục
    Bệnh Học Chuyên Khoa

    Trị Hen Phế Quản Bằng Bài Thuốc Quý Y Học Cổ Truyền

    Nhiều người bệnh đã tin tưởng chon chữa tri bệnh hen phế quản bằng phương pháp Y học cổ truyền. Bài viết sau sẽ giới thiệu đến các bạn bài thuốc Đông Y đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả trông việc điều trị hen phế quản.

    Nhiều bệnh nhân đã chọn Y học cổ truyền để tị bệnh hen phế quản

    Bài thuốc từ thảo mộc giúp ngừa cơn hen phế quản

    Theo thống kê, ở nước ta hiện nay, cứ 1000 người thì có 60 người mắc bệnh hen phế quản. Đây là bệnh lý có tỷ lệ tử vong cao trong số các bệnh hô hấp. Chữa trị bằng phương pháp của Y học cổ truyền là sự lựa chọn tin tưởng của nhiều người bệnh. Một trong những bài thuốc Đông Y đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả trong việc điều trị hen phế quản đó sẽ được chúng tôi giới thiệu đến các bạn ngay sau đây.

    Theo Đông Y, hen phế quản thuộc chứng háo suyễn, đàm ẩm của Y học cổ truyền hay xảy ra ở những người có tình trạng dị ứng. Nguyên nhân là do các tạng: tỳ, phế, thận suy yếu, chức năng không được điều hòa. Phế chủ khí, khí không thăng giáng mà nghịch lên gây ho, khó thở. Điều trị hen phế quản bằng phương pháp của Y học cổ truyền đã được khẳng định tác dụng lâu dài, bền vững mà lại cân bằng chức năng của ngũ tạng, nâng cao sức khỏe khiến bệnh dần tiêu tan. Một trong các bài thuốc đang được áp dụng là bài thuốc thanh tỳ dưỡng phế thang.

    Bài thuốc Y học cổ truyền chữa bệnh hen phế quản

    Với các bị thuốc chính như: Sa sâm, bạch linh, bạch truật, cam thảo, cát cánh, hoài sơn, mạch môn, liên nhục, quất bì. Bài thuốc này giúp ngăn ngừa không cho cơn hen phế quản tái phát. Một số vị thuốc chính như cam thảo, bạch truật.. có tác dụng kiện tỳ cho bệnh nhân. Khi kiện tỳ bệnh nhân tốt lên, nhất là đối với trẻ em hoặc các trường hợp sau khi sử dụng thuốc kháng sinh trong điều trị các hen cấp. Trên cơ sở đó thì thầy thuốc sẽ gia giảm thêm các vị thuốc. Mạch môn để dưỡng phế âm. Khi sử dụng mạch môn thì bệnh nhân sẽ bớt tình trạng có đờm đặc, khô rát cổ. Kết hợp với cát cánh thì sẽ tác dụng giảm ho, dưỡng phế, trừ đàm.

    Phòng bệnh hen phế quản

    Bên cạnh việc uống thuốc đều đặn theo chỉ dẫn, các thầy thuốc cũng khuyến cáo bệnh nhân những điều sau:

    • Người bệnh nên chú ý giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, nhất là xung quanh nơi làm việc và nhà ở. Không nên nuôi chó, mèo hoặc các loại chim cảnh trong nhà. Trong điều kiện thời tiết ẩm, nấm mốc và các loại vi khuẩn, virus dễ ẩn náu và sinh sôi gây bệnh, vì vậy nếu có điều kiện thì nên sấy khô hoặc phơi nắng giường, đệm, chăn gối.

    Người bị hen phế quản cần tránh những tác nhân gây dị ứng

    • Người bị hen phế quản cần tránh ăn hoặc hít những vật gì thường gây cơn hen. Nếu thực hiện được điều này thì việc điều trị bệnh hen phế quản mới đạt hiệu quả cao nhất. Cũng xin lưu ý thêm rằng không phải bệnh nhân nào cũng áp dụng bài thuốc giống nhau, mà cần có sự gia giảm tùy vào thể trạng của từng người và bệnh nhân cần thường xuyên tái khám để việc kê đơn thuốc trong các lần sau đạt hiệu quả cao nhất.
    • Thông thường thì đặc điểm của các bài Đông y thường hướng đến mục tiêu điều trị các căn nguyên của bệnh. Bài thuốc điều trị hen phế quản cũng không nằm ngoài những nguyên tắc đó. Tuy vậy để lá phổi và phế quản được mạnh khỏe lâu dài, thì bên cạnh việc hỗ trợ của thuốc thang, điều quan trọng nhất là chúng ta nên chủ động thực hiện chế độ ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý.
    Exit mobile version