Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Thoái Hóa Khớp – Dấu Hiệu Và Điều Trị

Thoái hóa khớp là một bệnh thường gặp ở người cao tuổi, là sự lão hóa tất yếu của cơ thể không phải là một bệnh lý thực sự, xuất hiện từ tuổi 40 và tăng dần theo thời gian. Từ tuổi 70 trở lên hầu như mọi người đều có dấu hiệu thoái hóa khớp.

    Dối tượng dễ bị bệnh nhất nào dễ mắc bệnh nhất

    Thoái hóa chủ yếu là suy khớp và đĩa đệm cột sống khiến những nơi này mất sự nhẵn bóng. Chúng trở nên xơ cứng, mất sự đàn hồi sau đó là hiện tượng đặc phần đầu xương, có thể mọc thêm các gai khớp xương do hiện tượng lắng đọng canxi ở mép dây chằng bám vào cột sống tạo ra hình ảnh gai xương trên phim Xquang.

    Thoái hóa khớp thường gặp ở người từ 50 tuổi trở lên và phụ nữ tuổi mãn kinh thường bị nhiều hơn nam giới. Những người có dị dạng khớp, thừa cân béo phì, chấn thương khớp, khi trẻ lao động nặng thì đến tuổi trung niên hoặc về già cũng dễ mắc bệnh.

    Có thể gặp tổn thương ở cột sống, đốt sống cổ, khớp gối, khớp háng, khớp vai. Thường chỉ 1-2 khớp bị, ít khi bị nhiều khớp.

    Dấu hiệu bị thoái hóa

    Người bệnh thường có các triệu chứng đau khớp, hạn chế vận động hay sưng khớp, biến dạng khớp. Đau là triệu chứng sớm và nổi bật nhất. Thoạt đầu chỉ đau khi vận động, nghỉ ngơi sẽ hết; sau đau sẽ âm ỉ, liên tục, tăng lên khi cử động.

    Nếu thoái hóa khớp gối: đau khi đi lại, đứng lên ngồi xuống. Khó khăn nhất là lúc lên xuống cầu thang hoặc ngồi xổm đứng lên, xuống cầu thang đau nhiều hơn. Các vận động gấp và duỗi cẳng chân bị hạn chế. Cả 2 bên khớp đầu gối đều bị. Có thể nghe thấy tiếng kêu lắc rắc khi cử động. Thoái hóa khớp gối thường gặp ở những phụ nữ thừa cân vào độ tuổi mãn kinh.

    Nếu thoái hóa khớp háng: đau khi vận động, nghỉ ngơi sẽ hết đau. Vị trí đau thay đổi, lúc thì đau ở bẹn, lúc thì ở vùng trước đùi, khi thì đau cả vùng mông lan xuống mặt sau đùi. Bệnh nhân đi lại khập khiễng, dạng háng khó khăn, khó gấp đùi vào bụng.

    Nếu thoái hóa cột sống: thoái hóa cột sống thường gặp ở cột sống vùng thắt lưng và cột sống cổ. Người bệnh cảm thấy đau âm ỉ ở vùng thắt lưng và thường đau trội lên sau 1 ngày làm việc phải đứng nhiều hay lao động nặng. Nếu nằm nghỉ đau sẽ giảm. Các động tác cúi, nghiêng, ngửa hoặc xoay người thường rất khó khăn làm bệnh nhân rất đau.

    Nếu thoái hóa khớp vai còn gọi là viêm quanh khớp vai: đau xuất hiện tăng dần lên và trở nên thường xuyên, khu trú ở mỏm vai xuyên ra cánh tay, đến khuỷu tay làm cho cử động khó khăn. Các cử động đưa tay ra trước, ra sau, quay tay bị hạn chế, có khi bệnh nhân không làm được cả những động tác đơn giản như gãi lưng hay chải đầu.

    Một điều cần lưu ý là thoái hóa khớp có thể làm biến dạng khớp nhưng không bao giờ làm mưng mủ tại chỗ, khớp không nóng, không đỏ, bệnh nhân không sốt.

    Lời khuyên của thầy thuốc

    Thoái hóa khớp là bệnh của người cao tuổi; là sự lão hóa tất yếu của cơ thể nên việc điều trị không có thuốc đặc hiệu, phòng bệnh cũng khó khăn. Để phòng và hạn chế thoái hóa khớp lúc về già nên tập thể dục đều đặn nhất là từ 40 tuổi trở đi. Tránh bị đái tháo đường; tránh béo phì bằng điều tiết ăn uống; tránh làm những động tác quá mạnh, bất chợt làm lệch trục khớp.

    Chuyên mục
    Bệnh Học Chuyên Khoa

    Thông Tin Về Viêm Đại Tràng Mạn Tính

    Theo bệnh học chuyên khoa viêm đại tràng mạn tính một bệnh thường gặp, trong đó tỷ lệ người cao tuổi mắc bệnh này khá cao. Viêm đại tràng mạn tính, nếu không điều trị dứt điểm sẽ dễ tái phát và có thể gây biến chứng nguy hiểm.

      Bệnh viêm đại tràng mạn tính là gì?

      Đại tràng (ruột già) có độ dài khoảng 150cm, là đoạn cuối của ruột, tuy vậy, đại tràng vẫn có chức năng tiếp nhận cặn bã từ ruột non chuyển xuống trước khi tống chúng ra ngoài cơ thể và nước tiếp tục được tái hấp thu qua cơ chế chủ động với số lượng không hạn chế, đồng thời đại tràng còn hấp thu các chất còn sót lại như: glucoza, axít amin và các vitamin mà ruột non chưa hấp thu hết. Đặc biệt, phân ở đại tràng có hệ hệ vi sinh vật rất phức tạp (hệ vi khuẩn chí), gồm cả vi khuẩn có lợi và vi khuẩn có hại cùng các chất độc giải phóng ra như CO2, CH4, H2S….Vì vậy, đại tràng rất dễ bị tổn thương và viêm nhiễm.

      Nguyên nhân và biểu hiện của viêm đại tràng mạn tính

      Nguyên nhân: Nguyên nhân viêm đại tràng mạn, trước hết là do viêm đại tràng cấp  bởi nhiễm khuẩn các vi khuẩn (E.coli gây tiêu chảy, Klebsiella…) hay các ký sinh vật (lỵ amíp…) qua ăn uống nhưng không được điều trị dứt điểm dẫn tới hiện tượng kháng thuốc hoặc điều trị  không đúng phác đồ gây loạn khuẩn. người tuổi cao sức đề kháng càng ngày càng có xu hướng suy giảm, thêm vào đó dễ bị táo bón do uống ít nước (ngại uống sợ phải đi tiểu nhiều, hoặc quên), bởi ít vận động càng dễ gặp phải bệnh viêm đại tràng mạn. Một số người lớn tuổi uống nhiều rượu, bia, ăn nhiều gia vị (ớt, hạt tiêu…) hoặc do điều kiện kinh tế cho nên ăn uống không điều độ, không hợp vệ sinh là những yếu tố thuận lợi cho đại tràng bị viêm mạn tính.

      Đại tràng bị viêm (cấp, mạn) sẽ làm cho niêm mạc, dưới niêm mạc bị viêm phù nề, hoặc có các vết xước, lâu dần sẽ loét, có ổ loét sâu, ở đáy có nhầy, mủ, máu tình trạng ngày một xấu đi nếu không chữa trị kịp thời… Hậu quả của viêm đại tràng mạn có thể làm cho người bệnh lo lắng bởi rối loạn tiêu hóa kéo dài, ăn không tiêu hoặc do kiêng khem kéo dài dẫn tới suy nhược cơ thể. Đáng chú ý nhất là viêm đại tràng mạn có thể dẫn tới u đại tràng, thậm chí u ác tính.

      Biểu hiện: Đau bụng là triệu chứng hay gặp nhất. Đau âm ỉ ở phần dưới rốn (bụng dưới, hạ vị) , có thể đau bụng dọc theo khung đại tràng. Sau khi ăn, đau bụng dễ xuất hiện, đôi khi đau, buồn đi ngoài, sau khi đại tiện, hết đau. Viêm đại tràng mạn, bụng nhiều hơi, đau, vì vậy, trung tiện nhiều và sau khi trung tiện, bụng đỡ đau hơn. Nhiều trường hợp, ban đêm đau bụng nhiều hơn, nhất là lạnh hoặc ăn thức ăn lạ, chua, cay, tanh, nhiều dầu mỡ. Kèm theo đau bụng, trung tiện nhiều là rối loạn tiêu hóa (miệng đắng, chán ăn, ăn không tiêu kéo dài, phân nát, không thành khuôn, đi đại tiện nhiều lần khoảng 2 – 5 lần trong một ngày đêm), tuy vậy, đôi khi phân rắn gây táo bón. Bụng hơi trướng (nhiều hơi nên trung tiện nhiều), cảm giác căng tức, khó chịu.

      Có thể chụp khung đại tràng có chuẩn bị (thụt tháo) với thuốc cản quang, nếu có điều kiện nên nội soi đại tràng. Trong trường hợp viêm đại tràng mạn tính nghi do dùng quá nhiều kháng sinh gây loạn khuẩn, cần xét nghiệm phân để đánh giá hệ vi khuẩn chí đường ruột, trên cơ sở đó bác sĩ sẽ có hướng điều trị thích hợp. Ngoài ra, có thể xác định nấm, lỵ amíp, vi khuẩn lao và tìm hồng cầu, bạch cầu trong phân.

      Điều trị viêm đại tràng mạn

      Nguyên tắc điều trị: Khi nghi ngờ bị viêm đại tràng mạn tính cần đi khám bệnh để xác định nguyên nhân, trên cơ sở đó, bác sĩ sẽ lựa chọn phác đồ điều trị thích hợp. Người bệnh không nên tự chẩn đoán bệnh cho mình và không tự mua thuốc để điều trị khi không có chuyên môn về y học

      Nguyên tắc dự phòng: Khi mắc bệnh viêm đại tràng cấp, NCT cần đi khám ngay và cần được điều trị dứt điểm theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh, không tự bỏ thuốc và không tự điều trị.  Để phòng bệnh, NCT nên có chế độ vệ sinh ăn uống hằng ngày, ăn chín, uống chín, không ăn các loại thực phẩm chưa nấu chín (tiết canh, nem chạo, nem chua), không ăn thức ăn ôi thiu, không ăn các thức ăn chế biến từ thực phẩm nhiễm bệnh (thịt lợn bị bệnh tai xanh, thịt gà bị bệnh cúm…). Không nên ăn các loại thức ăn có lượng dầu, mỡ quá cao, nhất là mỡ động vật. Cần hạn chế rượu, bia, thuốc lá, cà phê và các chất gia vị kích thích. Không uống nước chưa đun sôi, không dùng nước đá không vô khuẩn, không ăn rau sống, gỏi và không ăn quá nhiều thức ăn lên men chua (dưa, cà…). NCT cần uống đủ lượng nước mỗi ngày (khoảng 1, 5 – 2,0 lít) và những ngày không đau bụng, nên vận động cơ thể bằng các hình thức như đi bộ, tập thể dục buổi sáng, buổi tối trước khi đi ngủ. NCT vận động khó khăn nên đi lại trong nhà và cần có công cụ hỗ trợ (nạng, xe đẩy…) hoặc có người nhà dìu, dắt.

      Khi nghi ngờ bị viêm đại tràng mạn tính cần đi khám bệnh để xác định nguyên nhân

      Chuyên mục
      Bệnh Học Chuyên Khoa

      Viêm Phế Quản Cấp – Bệnh Nguyên Và Cách Điều Trị

      Theo bệnh học chuyên khoa viêm phế quản cấp nếu không được chữa trị đúng, kịp thời, có thể trở thành mạn tính, thậm chí gây biến chứng nguy hiểm. Bệnh thường gặp ở người cao tuổi.

        Bệnh viêm phế quản cấp là gì?

        Viêm phế quản cấp là tình trạng phế quản bị viêm đột ngột, kèm theo sự phản ứng tại chỗ và toàn cơ thể. Viêm phế quản được tạo thành từ các ống nhỏ hơn bao gồm phế quản, tiểu phế quản và phế quản tận cùng (phế nang), có chức năng dẫn khí và trao đổi khí. Khi các ống này bị viêm nhiễm, niêm mạc phế quản sẽ bị phù nề, sung huyết, bong các biểu mô phế quản và xuất tiết nhiều tạo thành đờm, thậm chí có mủ bao phủ niêm mạc phế quản. Do đó lòng phế quản bị phù nề làm chít hẹp, kèm theo nhiều chất tiết (đờm) ảnh hưởng đến thông khí, gây khó thở.

        Bệnh nguyên gây viêm phế quản cấp

        Bệnh xảy ra trên một cơ thể sức đề kháng suy giảm, đặc biệt là người sức yếu, nằm nhiều, bại liệt rất dễ mắc bệnh về đường hô hấp, nhất là viêm phế quản. Thời tiết chuyển mùa, nhất là lạnh, mưa nhiều, bệnh càng dễ gặp phải ở người có tuổi. Nguyên nhân sâu xa gây viêm phế quản cấp tính là do vi sinh vật (vi khuẩn, virút, vi nấm). Ở người bình thường, tại ở đường hô háp trên (họng, mũi, hầu, thanh quản…) có một số vi sinh vật ký sinh, không gây bệnh (phế cầu, tụ cầu, Hemophilus influeznzae, Klebsiella, nấm Candida albicans…) khi gặp điều kiện thuận lợi (sức đề kháng giảm…) chúng sẽ gây bệnh (gây bệnh cơ hội). Bên cạnh đó, trong không khí có vô số vi sinh vật gây bệnh (đặc biệt môi trường bị ô nhiễm nhiều), nhất là các loại virút đường hô hấp (virút cúm…), nếu hít phải, trong khi sức chống đỡ kém sẽ mắc bệnh là điều khó tránh khỏi.

        Một số NCT nghiện thuốc lá, thuốc lào, nghiện rượu bia càng dễ mắc bệnh viêm phế quản cấp khi thời tiết chuyển mùa. Ngoài ra, bệnh rối loạn chuyển hóa (đái tháo đường), bệnh mạn tính, nếu NCT gặp phải, đôi khi là điều kiện thuận lợi cho viêm phế quản cấp hình thành (các loại bệnh như thế thường ảnh hưởng xấu đến sức đề kháng của cơ thể).

        Triệu chứng bệnh viêm phế quản cấp

        Khởi đầu là viêm đường hô hấp trên với các triệu chứng: hắt hơi, sổ mũi, ho khan, rát họng, đau mỏi cơ thể, tức ngực (biểu hiện của viêm đường hô hấp trên). Nếu bệnh lành tính (nhẹ) thường tự khỏi sau 5 – 7 ngày. Với NCT do sức đề kháng kém cho nên rất khó để bệnh tự khỏi, nhất là người ốm yếu dài ngày, ăn uống thiếu chất. Tiếp đến là thời kỳ toàn phát, người bệnh sốt cao 38 – 390C, cũng có trường hợp có thể lên tới 400C, mệt mỏi, đau đầu, nhức mỏi xương khớp, cảm giác nóng rát sau xương ức, tăng lên khi ho. Tuy vậy, một số NCT do sức yếu, nằm lâu, ít vận động nên có thể không thấy sốt (phản ứng của cơ thể yếu). Người bệnh bắt đầu có khó thở từ nhẹ đến nặng, có thể có tiếng rít, ho khan, ho thành cơn nhất là về đêm, thời tiết lạnh, ẩm, mưa nhiều. Nếu không được chữa trị, nếu tác nhân gây bệnh là virút, có thể bệnh lui dần, nhưng nếu do vi khuẩn, không điều trị đúng, bệnh trở nên nặng hơn (ho nhiều, có đờm, sốt cao, mệt lả do mất nước, mất chất điện giải và nhiễm độc độc tố vi khuẩn).

        Cần xét nghiệm công thức máu, tốc độ lăng máu, phản ứng CRP, chụp phổi. Nếu thấy cần thiết có thể nuôi cấy chất nhầy phế quản tìm vi khuẩn gây bệnh.

        Biến chứng viêm phế quản cấp

        Viêm phế quản cấp, nói chung, tiến triển lành tính (nếu do virút), ở người khoẻ mạnh thường tự khỏi sau 2 tuần, không để lại di chứng gì. Tuy vậy, ở người nghiện thuốc lá, thuốc lào, NCT sức đề kháng kém, có thể có bội nhiễm vi khuẩn và ho khạc đờm kéo dài và có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, phế quản phế viêm, áp-xe phổi (do tụ cầu vàng).

        Cần lưu ý, ho trong viêm phế quản cấp có thể kéo dài nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng (do các phế quản chưa lành hẳn). Tuy nhiên, ho có thể là triệu chứng của bệnh lý khác như hen suyễn trên một người có bệnh hen.

        Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh

        Khi NCT đột nhiên thấy sốt, ho, mệt mỏi, đau rát họng…, cần đi khám bệnh ngay. Với NCT sức yếu, người nhà cần hết sức quan tâm, nhất là những trường hợp nằm lâu, ít vận động, lú lẫn, ăn uống thất thường rất dễ viêm phế quản cấp do ứ đọng các chất dịch ở phế quản. Việc điều trị (dùng thuốc gì) thuộc quyền bác sĩ khám bệnh, người bệnh hoặc người nhà không nên tự mua thuốc để điều trị, nhất là việc dùng kháng sinh không đúng sẽ rất nguy hiểm.

        Chuyên mục
        Bệnh Học Chuyên Khoa

        Hở Van Tim Dưới Góc Nhin Của Chuyên Gia Bệnh Học

        Các chuyên gia bệnh học cảnh báo bệnh nhân hở van tim bệnh có thể tiến triển thành suy tim. Đặc biệt là hở van 2 lá và hở van động mạch chủ là hai trong số các van dễ gặp các nguy cơ này.

          Hở van tim là gì?

          Các van tim được ví như cánh cửa đóng mở đều đặn đảm bảo cho máu lưu thông theo một chiều nhất định giữa các buồng tim, giữa tim với động mạch. Hở van tim làm giảm khả năng bơm máu của tim. Hở van tim là một trong những nguyên nhân gây suy tim thường gặp nhất, sau nguyên nhân suy tim do bệnh tăng huyết áp.

          Dấu hiệu hở van tim

          Các van tim có thể bị hở khi bất kỳ một thành phần cấu tạo nào của van như vòng van, lá van, dây chằng van hoặc cơ tim bị tổn thương.

          Bệnh thường gặp ở người bị tăng huyết áp, bệnh mạch vành, viêm cơ tim, màng tim, hậu thấp (thấp khớp do liên cầu khuẩn) và một số bệnh khác (Lupus ban đỏ hệ thống, cường giáp, chấn thương vùng ngực có thể gây bất thường trong cấu trúc và chức năng van tim…)

          Đa số người hở van hai lá, ba lá mức độ nhẹ sẽ không có dấu hiệu nhận biết sớm, một vài người có khó thở khi gắng sức. Chỉ khi các van hở nặng thì triệu chứng mới rõ rệt. Nhưng van động mạch chủ dù chỉ hở ở mức độ nhẹ đã gây khó thở, mệt mỏi nên có thể phát hiện sớm hơn.

          Ngoài những triệu chứng lâm sàng, hở van tim được phát hiện bằng ống nghe thông qua tiếng thổi bất thường ở tim, hoặc điện tim, siêu âm tim…

          Hở van tim được phát hiện bằng ống nghe

          Các chuyên gia bệnh học nói về quá trình hở van tim tiến triển thành suy tim

          Hở van tim tức là van đóng không kín làm máu trào ngược lại buồng tim mỗi khi tim co bóp. Khi đó, tim phải làm việc nhiều hơn để bơm đủ máu tới các cơ quan và nó phải thích nghi với tình trạng thiếu hụt này bằng nhiều cách: các buồng tim giãn ra để tăng thể tích chứa máu, cơ tim dày lên giúp bơm máu mạnh mẽ hơn.

          Cơ thể cũng cố gắng bù đắp sự thiếu hụt máu do tim làm việc không hiệu quả bằng cách: các mạch máu co lại, muối và nước được tích lại nhiều hơn để giữ huyết áp và giúp máu luân chuyển tốt hơn. Cơ thể cũng chuyển dòng máu ra khỏi các cơ quan ít quan trọng, ưu tiên máu đến nuôi dưỡng tim và não.

          Những thay đổi ban đầu này giúp tim làm việc hiệu quả hơn và che dấu được các vấn đề của suy tim. Nhưng theo thời gian, những cố gắng đó không còn hiệu quả. Tim không thể bơm đủ máu đi nuôi cơ thể, khiến người bệnh bị mệt mỏi do thiếu oxy và dưỡng chất, ho do máu ứ tại phổi, phù chi do máu trở về tim khó khăn. Điều này lý giải vì sao phần lớn những người bị hở van tim chỉ nhận biết bệnh khi trái tim đã bị suy yếu sau nhiều năm.

          Van hai lá và van động mạch chủ – là hai trong số van bị chịu áp lực lớn hơn hai van còn lại. Vì thế, khi hở hai này nguy cơ suy tim sẽ cao hơn và khi suy tim hậu quả của nó cũng bị nặng nề hơn.

          Cách ngăn ngừa suy tim do hở van tim

          Tư vấn ngăn ngừa suy tim do hở van tim

          – Theo dõi định kỳ: nhằm theo dõi mức độ hở van, kích thước buồng tim và đánh giá chức năng tim, từ đó có hướng điều trị phù hợp.

          – Thay đổi lối sống: tránh làm việc nặng quá sức và tập thể dục hàng ngày bằng các bài tập vừa sức.

          – Tuân thủ điều trị: giúp làm giảm các triệu chứng, ngăn ngừa tiến triển của bệnh.

          Các thuốc điều trị hở van tim không nhằm mục đích làm liền lại van, mà chủ yếu giải quyết tình trạng ứ trệ máu tại tim, giảm áp lực cho tim, giúp máu lưu thông qua van dễ dàng hơn.

          Nguồn: Suckhoedoisong.vn

           

          Chuyên mục
          Bệnh Học Chuyên Khoa

          Đột Quỵ Não – Những Điều Cần Biết Về Căn Bệnh Nguy Hiểm Này

          Theo các chuyên gia bệnh học đột quỵ não là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn tật. Mỗi năm trên thế giới có 17 triệu ca đột quỵ và khoảng 6 triệu ca tử vong.

            Ở nước ta , cơ sở hạ tầng của đa số các bệnh viện còn thiếu thốn, nên việc chẩn đoán, xử trí và quản lý bệnh nhân đột quỵ còn gặp nhiều khó khăn. Kiến thức về đột quỵ của người dân cũng còn hạn chế, không nhận biết được các triệu chứng để kịp thời đưa người bệnh đi cấp cứu. Hậu quả là tỷ lệ bệnh nhân bị di chứng chiếm tới 90%.

            Những dấu hiệu nhận biết đột quỵ

            Khi một người đang khỏe mạnh bình thường mà đột ngột xuất hiện 1 trong 5 biểu hiện sau: đột ngột mất thị lực, đặc biệt xuất hiện ở một bên mắt hoặc nhìn 1 hóa 2; khó khăn khi đi đứng, chóng mặt hoặc khó phối hợp động tác; đau đầu dữ dội mà không biết nguyên nhân; suy giảm ý thức nhanh chóng; trong một số trường hợp, người bệnh vẫn còn tỉnh táo, nhưng đa số bị giảm sút tri giác (như  lơ mơ, yếu liệt nửa người, méo miệng, nói ngọng, sặc khi ăn),… Cần nhanh chóng đưa người bệnh đến bệnh viện gần nhất có chuyên môn sâu về điều trị đột qụỵ (trung tâm đột quỵ) để được cấp cứu kịp thời trong giờ vàng (3 giờ đầu kể từ khi có biểu hiện đầu tiên). Trường hợp tắc mạch sẽ được chỉ định dùng thuốc làm tan cục máu đông hoặc dùng phương pháp để gắp cục máu đông. Cùng đó người nhà bệnh nhân cũng cần biết một số thao tác sơ cứu ban đầu.

            Biện pháp sơ cứu bệnh nhân đột quỵ não tại chỗ

            Đặt người bệnh nằm nghiêng về bên không liệt. Nếu người bệnh còn tỉnh. Kiểm tra xem có dị vật  trong miệng để tránh tắc đường thở. Điều quan trọng nhất lúc này là đảm bảo chức năng thở cho bệnh nhân, sau đó kiểm tra tim, đo huyết áp. Không nên cho bệnh nhân dùng bất cứ một loại thuốc nào vì đôi khi bệnh nhân bị sặc và suy hô hấp. Nếu bệnh nhân ngừng thở cần hô hấp nhân tạo và xoa bóp tim ngoài lồng ngực (cứ hà hơi thổi ngạt 5 lần thì ấn tim 1 lần). Những biện pháp dân gian để sơ cứu ban đầu cho bệnh nhân  như xoa dầu đánh gió hay trích máu đầu ngón tay là thừa.

            Chú ý:

            Việc dùng kim châm 10 đầu ngón tay nặn máu trong Đông y chỉ đúng với một vài trường hợp bất tỉnh do trúng phong chứ không phải tất cả các trường hợp đột quỵ, do đó không nên để mất thời gian vào những việc không hiệu quả này mà mất đi thời gian vàng cứu sống người bệnh. Cứ 1 phút trôi qua mà người đột quỵ không được điều trị sẽ có 2 triệu nơron thần kinh bị chết đi và tương ứng là sự tàn phế khó hồi phục. Điều này lý giải nếu để muộn không được cấp cứu kịp thời thì tổn thương não càng nặng và càng khó hồi phục.

            Chuyên mục
            Bệnh Học Chuyên Khoa

            Đau Gót Chân – Nguyên Nhân Và Cách Điều Trị

            Theo bệnh học chuyên khoa, đau gót chân thường xuất hiện ngay khi ngủ dậy và bước chân đầu tiên đặt xuống thảm nhà. Nguyên nhân và cách điều trị gót chân như nào hiệu quả nhất? Bài viết sau sẽ giúp bạn xử lý khi bị đau gót chân.

            Thông tin cơ bản về bệnh đau gót chân

            Đau gót gan chân do viêm cân gan chân và ngón chân cái khép vào các ngón 2. Đau gót chân liên quan viêm cân gan chân, dây chằng lớn trải dài từ gót chân đến ngón chân. Khi chúng ta đứng hoặc bước đi, cân gan chân và vùng gót chân sẽ bị tác động và điểm khởi nguồn của đau gót chân. Đau gót chân xuất hiện sau nhiều vi chấn thương hàng ngày, hoặc ở những người thừa cân… làm căng cơ bắp chân và xuất hiện đau, vì vậy liệu pháp vật lý, hoặc vuốt dọc cơ cẳng chân ở bắp chân sẽ giảm đau gót chân. Đau gót chân gặp khá phổ biến tại các phòng khám chuyên khoa xương khớp. Đau gót chân có thể hấy một bên chân hoặc cả hai bên chân. Tùy thuộc vào nguyên nhân, đau gót chân có thể gặp ở người trẻ mắc bệnh viêm cột sống dính khớp và người lớn do bệnh thoái hóa khớp, bệnh gút, bệnh loãng xương… nam gặp nhiều hơn nữ…

            Gai gót chân là một gai xương hoặc chồi xương (tăng sinh xương bất thường ở xương gót) ở vị trí mặt dưới của gót chân, gai xương gót nhìn thấy khi chụp nghiêng bàn chân, đau gót chân là nguồn gốc do viêm hoặc không do viêm. Đau gót chân đặc biệt thường thấy sau khi ngủ dậy, bước chân đầu tiên xuống sàn nhà hoặc sau khi những bước đi quá dài, đau rất nhiều và lan về phía các ngón chân. Nguyên nhân do sự co kéo quá mức trên cân gan chân vì các vi chấn thương lên điểm bám vào xương gót, gây phản ứng viêm. Viêm mạn tính của cân gan chân làm phát triển các tế bào xương tạo ra gai nhỏ theo hướng co kéo cân gan chân, do nguời quá béo. Chơi các môn thể thao (chạy, nhảy, ) hoặc đi giày không phù hợp quá cứng, gót quá mỏng, đứng quá lâu, mang đồ nặng có thể gây đau gót chân.

            Nguyên nhân gây đau ra gót chân

            Điều trị để làm dịu đau và loại bỏ các lực ép lên gót chân. Trong nhiều trường hợp khỏi đau rất nhanh: Đi giày chỉnh hình, giày phù hợp môn thể thao, bàn chân. Sử dụng các thuốc chống viêm không steroid xoa lên chỗ đau. Tiêm thấm corticoid tại chỗ và không nên lạm dụng tiêm corticoid, điều trị vật lý bằng các sóng siêu âm, xoa bóp cơ vùng cẳng chân cũng cho kết quả rất tốt.

            Đau gót chân ở phía sau gân Achille: Do viêm túi thanh mạc của gân Achille (bursite) hoặc viêm gân Achille. Đau vùng này thường sưng và đỏ da vùng gân Achille.

            Đau gót chân hai bên: Trong các bệnh lý cột sống viêm do thấp, thường đau gót chân hai bên. Bệnh gặp ở nam giới trẻ tuổi, gia đình có thể có người mắc bệnh vẩy nến, vì vậy cần làm xét nghiệm kháng nguyên HLA-B27 là rất cần thiết.

            Ngoài ra đau gót chân có thể gặp trong các bệnh gút, loãng xương.

            Cách điều trị và phòng bệnh đau gót chân

            Điều trị: Đau gót chân có thể chữa khỏi và phụ thuộc nguyên nhân, mục đích điều trị làm giảm đau và dịu đau bằng luyện tập, hoặc mang lót đế giày, điều trị chống viêm tại chỗ và toàn thân, điều trị vật lý, trong một số trường hợp tiêm corticoid tại chỗ. Ở những bệnh nhân có mắc các bệnh toàn thân như đái tháo đường type 2 và tăng huyết áp khi chỉ định tiêm corticoid cần kiểm soát tốt đường huyết và huyết áp. Điều trị kiên nhẫn luyện tập trong vài tháng sẽ mang lại kết quả mong đợi. Một số bài tập có thể góp phần làm giảm đau gót chân. Các bài tập như tay chống vào tường, chân đi trên thảm, một chân gối ở tư thế gấp và chân kia gối ở tư thế duỗi. Mỗi tư thế 10 giây và đổi bên hoặc ngồi bắt chéo chân lên gối đối diện và tập bàn chân, ngửa gan bàn chân và giữ ở tư thế đó 10 giây. Các động tác vuốt dọc cơ bắp chân đều giúp giảm đau gót chân. Điều trị đau gót chân yêu cầu người bệnh cần kiên trì luyện tập, chú ý chọn giày đế không quá cứng và kết hợp vật lý trị liệu.

            Dự phòng đau gót chân: Tránh đau gót chân, làm dịu đau gót chân hàng ngày luyện tập cơ bắp chân và luyện tập cơ bàn chân tăng các hoạt động thể thao.

            Chuyên mục
            Bệnh Học Chuyên Khoa

            Trị Huyết Áp Thấp Hiệu Quả Bằng Bài Thuốc Y Học Cổ Truyền

            Trong bệnh học, huyết áp thấp là một bệnh thường gặp ở cả 2 giới. Việc điều trị huyết áp thấp là việc hết sức cần thiết. Dược sĩ Đông dược sẽ tư vấn bài thuốc cổ truyền trị huyết áp thấp hiệu quả.

              Nguyên nhân gây bệnh huyết áp thấp dưới góc nhìn Y học cổ truyền.

              Huyết áp thấp thường thấy ở cả hai giới. Tuy nhiên ở nữ tỷ lệ bị bệnh nhiều hơn nam giới. Nguyên nhân gây bệnh: Do ốm yếu lâu ngày cơ thể suy nhược; Do thận dương hư suy giảm; Do khí huyết lưỡng hư. Sự điều tiết thích nghi của cơ thể không đáp ứng được kịp thời. Việc điều trị dựa theo chứng trạng và thể bệnh để có phương dược thích hợp.

              Một số bài thuốc Y học cổ truyền hữu hiệu cho từng thể bệnh trên lâm sàng.

              Thể khí huyết lưỡng hư:

              Thường bị choáng đầu buốt đầu, mệt mỏi như mất sức, chân tay yếu mềm, hoa mắt, tức ngực khó thở. Người bệnh muốn nằm. Huyết áp tối đa nhỏ hơn 100mmHg.

              Bài 1: Xuyên khung 12g, đương quy 16g, thục địa 12g, bạch thược 12g, ngũ gia bì 12g, hà thủ ô 12g , tần giao 10g, quế 10g, thiên niên kiện 10g, sinh khương 8g, ngũ vị 10g, cẩu tích 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

              Bài 2: Bạch truật 16g, thục địa 12g, đại táo 12g, đương quy 16g, chích thảo 12g, cẩu tích 12g, sơn thù 12g, phụ tử 8g, đẳng sâm 16g, gừng khô 8g, quế 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

              Thể mệnh môn hỏa suy:

              Hỏa ở mệnh môn còn gọi là “tướng hỏa”. Nó giữ vai trò điều tiết cho cơ thể. Khi mệnh môn hỏa hư suy, khả năng cân bằng âm dương không còn tác dụng.

              Biểu hiện mệt mỏi đuối sức, đau ngực khó thở, chóng mặt hoa mắt, buồn nôn, thân nhiệt hạ thấp, mạch nhanh yếu, huyết áp tụt.

              Bài 1: Cố chỉ 10g, phụ tử 10g, can khương 10g, quế 8g, thiên niên kiện 10g, ngải diệp (khô) 16g, phòng sâm 16g, chích thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

              Bài 2: Nhân sâm 12g, can khương10g, đỗ trọng (sao muối) 12g, cố chỉ 10g, ngũ vị 10g, cao lương khương 12g, cẩu tích 12g, biển đậu 16g, chích thảo. Sắc uống ngày 1 thang.

              Bài 3: Nhân sâm 12g, đẳng sâm 12g, can khương 10g, quế 10g, thiên niên kiện 10g, xuyên khung, đương quy 16g, cẩu tích 12g, phụ tử 8g, hoài sơn 16g, liên nhục (hạt sen đã bỏ vỏ cứng) 16g, đại táo 6 quả, trần bì (sao) 10g, chích thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

              Thể thận dương hư:

              Cơ thể mỏi mệt, đau đầu buốt đầu, chân tay yếu mềm, vã mồ hôi, thân nhiệt thấp, phân lỏng. Huyết áp tối đa nhỏ hơn 100mmHg.

              Bài 1: Ngưu tất 16g, đỗ trọng 12g, thỏ ty tử 12g, cố chỉ 10g, cẩu tích 12g, bạch truật 16g, ngũ vị 10g, kinh giới 12g, ngũ gia bì 12g, quế 10g, sinh khương 8g, củ đinh lăng 16g, trần bì (sao) 12g, đẳng sâm 16g. Sắc uống ngày 1 thang.

              Bài 2: Tần giao 10g, bạch truật 16g, thương truật 12g, hậu phác 12g, ngũ gia bì 16g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, sinh khương 8g, cao lương khương 12g, cố chỉ 10g, ngải diệp 16g, hà thủ ô (chế) 16g, quế 10g, thiên niên kiện 10g, nhân sâm 10g, chích thảo 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

              Chuyên mục
              Bệnh Học Chuyên Khoa

              Bệnh Đau Dạ Dày Cấp Nguyên Nhân Và Cách Xử Trí

              Bệnh học chuyên khoa đau dạ dày cấp là một bệnh dễ gặp trong cộng đồng, nếu không được chữa trị đúng sẽ dẫn đến mạn tính và có thể gây biến chứng rất nguy hiểm.

                Đau dạ dày cấp, nếu không phát hiện và chữa trị sớm có thể dẫn đễn viêm dạ dày mạn tính sẽ đau bụng liên tục, gầy sút rõ rệt do mất ngủ, do không hấp thu được, do lo lắng nhiều, nhất là những người đang đi học hoặc đang đảm đương nhiệm vụ quan trọng. Từ đây, có thể gây viêm loét dạ dày-tá tràng, hẹp môn vị, gây chảy máu, thủng dạ dày, thậm chí ung thư dạ dày.

                Những nguyên nhân gây đau dạ dày cấp

                Đa số người bị đau dạ dày cấp, mạn tính chính là do viêm bởi vi khuẩn Helicobacter pylori (viết tắt HP). Một số người khác, đau dạ dày cấp do uống quá nhiều rượu, bia, một số khác do tác dụng phụ của thuốc kháng viêm trong điều trị bệnh viêm khớp, thoái hóa khớp. Đau dạ dày cấp có thể xuất hiện khi dùng nhiều và thường xuyên thuốc chống viêm không steroid (aspirin, diclofenac…), hoặc dùng corticoid (prednisoon, methylprednisolon, solumedrol…). Bởi vì, các loại thuốc này sẽ làm giảm một chất quan trọng giúp bảo vệ niêm mạc dạ dày, thậm chí gây xuất huyết dạ dày (thuốc corticoid). Việc sử dụng quá nhiều rượu, bia có thể gây kích ứng và ăn mòn niêm mạc dạ dày và gây đau dạ dày cấp tính.

                Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố thuận lợi tạo nên viêm đau dạ dày cấp như: ngộ độc thực phẩm, ăn uống không điều độ, chế độ ăn không phù hợp. Ngộ độc thực phẩm có thể do thực phẩm bị nhiễm hóa chất hoặc nhiễm các vi khuẩn gây bệnh. Ngộ độc thực phẩm gây nên viêm dạ dày cấp tính, vì vậy hầu hết phải cấp cứu. Ngoài ra, người nghiện thuốc lá hoặc căng thẳng thần kinh, gặp stress kéo dài là một trong những yếu tố thuận lợi gây nên viêm dạ dày cấp. Một số trường hợp viêm dạ dày cấp trên một người bệnh đang bị viêm dạ dày mạn nhưng do một nguyên nhân nào đó gây viêm dạ dày cấp như: uống rượu, ăn quá chua cay, hút thuốc lá, thời tiết thay đổi (gió mùa đông bắc, áp thấp nhiệt đới, lạnh…) hoặc bị hẹp môn vị do sưng nề môn vị cấp tính.

                Đau bụng thượng vị là triệu chứng đầu tiên; người bệnh có thể buồn nôn và nôn nhiều

                Biểu hiện của viêm dạ dày cấp

                Đau bụng thượng vị là triệu chứng đầu tiên, kèm theo nóng rát, cồn cào hoặc đau dữ dội vùng thượng vị. Đau thượng vị thường xuất hiện sau khi ăn do niêm mạc dạ dày đang bị viêm sung huyết, khi thức ăn vào sẽ tác động vào niêm mạc gây đau dữ dội. Một số người bệnh đau vùng thượng vị sau khi ăn khoảng 2 – 3 tiếng, hoặc khi đang đói mà ăn vào sẽ đau ngay, có khi cơn đau hành hạ vào lúc nửa đêm, gần sáng gây mất ngủ, ngày hôm sau sẽ mệt mỏi, buồn ngủ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu xuất công tác, học tập và cuộc sống thường ngày. Một số không đau dữ dội mà đau âm ỉ, cảm giác rát bỏng, thỉnh thoảng đau quặn từng cơn, có thể sẽ cảm thấy tức ngực, đau lan ra sau lưng… Người bệnh có thể buồn nôn và nôn nhiều, ăn xong nôn ngay, nôn hết thức ăn. Nếu nôn hết thức ăn, người bệnh giảm đau bụng, nhưng một lúc sau cơn đau lại xuất hiện trở lại. Nếu nôn nhiều sẽ làm cho người bệnh hốc hác, nhợt nhạt, mệt mỏi do mất nước và chất điện giải (mất nước và mất muối) và gây sút. Ngoài ra, có thể gây rối loạn tiêu hóa như: ợ hơi, ợ chua, đi lỏng, đầy bụng, trướng bụng, sôi bụng, sinh hơi nhiều (trung tiện nhiều) và chán ăn.

                Để chẩn đoán đau dạ dày cấp ngoài các triệu chứng lâm sàng, cần hỏi kỹ tiền sử và gia đình người bệnh (trước khi đau bụng cấp tính, người bệnh ăn, uống gì, tiền sử và gia đình có ai bị bệnh dạ dày không…). Khi đã cấp cứu qua khỏi cơn đau có thể tiến hành chụp X-quang dạ dày có thuốc cản quang (nếu chắc chắn không bị thủng dạ dày)  hoặc nội soi dạ dày, nếu người bệnh chưa, uống ăn gì. Nội soi dạ dày là phương pháp hữu hiệu bởi vì biết rõ vị trí viêm, qua nội soi có thể lấy mảnh sinh thiết để xét nghiệm, trong đó xét nghiệm tìm vi khuẩn HP là hết sức cần thiết bằng kỹ thuật nhuộm Gram và làm phản ứng sinh học phân tử PCR. Nếu thấy cần thiết có thể chụp X-quang ổ bụng không chuẩn bị, siêu âm ổ bụng để chẩn đoán phân biệt với một số bệnh khác gây đau bụng.

                Cách xử trí khi đau dạ dày cấp

                Khi có cơn đau thượng vị cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt để phát hiện bệnh và chữa trị kịp thời. Trước hết điều trị triệu chứng, nhất là giảm đau, chống viêm, chống xuất tiết dịch vị và chống nôn, bởi vì, dịch vị càng xuất tiết nhiều càng kích thích niêm mạc dạ dày càng gây đau, gây nôn. Nếu bị ngộ độc thực phẩm cần rửa dạ dày càng sớm càng tốt.

                Nếu ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn cần dùng kháng sinh theo phác đồ, nếu xét nghiệm mảnh sinh thiết dạ dày chứng  tỏ viêm dạ dày do vi khuẩn HP cần dùng kháng sinh đủ liều lượng. Ngày nay, có nhiều phác đồ điều trị tiêu diệt vi khuẩn HP, tốt nhất là điều trị theo phác đồ của Bộ Y tế ban hành. Bên cạnh đó, cần nâng cao sức đề kháng cho cơ thể bằng cách ăn uống đủ chất, dùng thêm đa sinh tố, đặc biệt là vitamin B12.

                Chuyên mục
                Bệnh Học Chuyên Khoa

                Bệnh Đau Vai Gáy – Nguyên Nhân Và Cách Điều Trị

                Bệnh đau vai gáy là bệnh thường gặp xảy ra chủ yếu ở người trưởng thành hoặc gặp ở những đối tượng làm công việc nặng và nhất là người cao tuổi.

                   

                  Nguyên nhân và triệu chứng bệnh đau vai gáy

                  Bệnh đau vai gáy xuất hiện một cách thất thường, nhiều trường hợp bỗng dưng sau khi ngồi dậy, sau một đêm ngủ dậy thấy đau nhức khắp mình, đặc biệt là đau vùng vai, gáy nhiều khi đau lan xuống bả vai, làm tê mỏi các cánh tay, cẳng tay và ngón tay rất khó chịu. Triệu chứng đau nhức vai, gáy kéo dài trong nhiều ngày thậm chí trong nhiều tháng, cá biệt có trường hợp đau lan xuống hông, sườn hoặc thiếu máu cơ tim do chèn ép các mạch máu rất nguy hiểm.

                  Có rất nhiều nguyên nhân gây nên đau vai, gáy như thoái hoá, thoát vị đĩa đệm các đốt sống cổ với nhiều lý do khác nhau; do vẹo cổ bởi gối đầu cao, nằm sai tư thế hoặc vẹo cổ bẩm sinh; do dị tật; do viêm, chấn thương hoặc do các tác nhân cơ học như ngồi lâu, cúi lâu hoặc do mang vác nặng sai tư thế. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có một số yếu tố thuận lợi gây thiếu máu cục bộ vùng vai, gáy như thói quen ngồi lâu trước quạt, trước máy điều hoà nhiệt đô (máy lạnh), ra ngoài trời không đội mũ, nón để ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào vùng gáy…

                  Phòng và điều trị bệnh đau vai gáy

                  • Cần phát hiện bệnh sớm nhất có thể:

                  Một số trường hợp có thể tự chẩn đoán cho mình bị đau vai gáy với nguyên nhân gì, ví dụ nằm ngủ gối đầu cao sáng dậy bị vẹo cổ, đau vai, mỏi tay  hoặc do nằm sai tư thế kéo dài nhiều giờ như nằm co quắp,  gối đầu cao  hoặc tư thế nằm  nghiêng sang một bên.

                  Đa số các trường hợp không rõ nguyên nhân hoặc có nhiều nguyên nhân làm lẫn lộn không biết nguyên nhân nào là nguyên nhân chính gây nên đau vai, gáy thì cần đi khám bệnh. Tại cơ sở y tế có điều kiện, ngoài thăm khám  người ta có thể hỏi bệnh, chụp Xquang đốt sống cổ, chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp cắt lớp vi tính (CT) và cũng có thể đo điện não đồ, đo mật độ xương, xét nghiệm sinh hoá máu nếu có bệnh về bệnh liên quan đến tim mạch…

                  • Cách “đối phó” với chứng đau vai gáy:

                  Tập thể dục là cách ngăn ngừa đau vai gáy hiệu quả

                  Cần khắc phục nguyên nhân gây ra đau vai gáy mà chính bản thân người bệnh biết được lý do gây ra đau vai gáy là điều quan trọng, ví dụ như không đọc sách, văn bản, soạn giáo án, giáo trình, đọc truyện kéo dài nhiều thời gian trong một buổi, trong một ngày; không nằm kê đầu bằng gối cao cả tư thế nằm ngửa, cả tư thế nằm nghiêng.

                  Một số nghề nghiệp không thể không ngồi lâu trong một thời gian dài như đánh máy, lái xe đường dài, công tác văn phòng thì cố gắng nghỉ giải lao giữa giờ làm việc và tập cúi xuống, đứng lên hoặc quay đầu, xoay cổ nhẹ nhàng trong vòng 10-15 phút sau vài giờ đã làm việc liên tục.

                  Tuy nhiên trong những trường hợp đã được bác sĩ khám và xác định thoái hoá đốt sống cổ gây xơ cứng đốt sống cổ, thoát vị đĩa đệm đốt sống cổ thì không nên xoay cổ, vặn cổ hoặc xoay lưng mạnh, nếu làm như vậy thì sẽ “lợi bất cập hại”. Xoa bóp, bấm huyệt đúng cách, đúng chuyên môn và thực hiện đều đặn hàng ngày cũng có thể đem lại hiệu quả nhất định kết hợp với điều trị thuốc.

                  Điều trị thuốc gì cần có ý kiến của bác sĩ khám bệnh cho mình, không nên tự mua thuốc điều trị và cũng không nên điều trị ở những cơ sở không đáng tin cậy. Hiện nay khoa học ngày càng phát triển cho nên về Tây y có những loại thuốc dùng điều trị về bệnh khớp nói chung và bệnh thoái hoá khớp nói riêng khá hiệu nghiệm. Thuốc vừa điều trị giảm đau vừa điều trị phục hồi dần các tổn thương của khớp mà ít ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng xấu đến đường tiêu hoá của người bệnh.

                  Chuyên mục
                  Bệnh Học Chuyên Khoa

                  Bệnh Nhiễm Trùng Huyết – Nguyên Nhân Và Cách Phòng Bệnh

                  Bệnh học chuyên khoa cho biết nhiễm trùng huyết là một bệnh có tỉ lệ tử vong cao có thể chiếm từ 20 – 50%. Chính vì thế cần quan tâm đến nguyên nhân gây bệnh để phòng ngừa.

                    Nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết

                    Có thể nói nhiễm trùng huyết là một bệnh nhiễm khuẩn toàn thân nặng do sự xâm nhập liên tiếp vào máu của vi khuẩn gây bệnh và độc tố của vi khuẩn. Bệnh cảnh lâm sàng khá đa dạng vì quá trình phát triển bệnh lý phụ thuộc không những vào mầm bệnh mà còn phụ thuộc vào sự đáp ứng của từng cơ thể người bệnh. Nhiễm trùng huyết thường tiến triển nặng và không có chiều hướng tự khỏi nếu không được xử trí điều trị kịp thời.

                    Nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết do vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào máu

                    Nói một cách khác, nhiễm trùng huyết là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có nguyên nhân từ vi khuẩn lưu hành ở trong máu; chúng gây ra các triệu chứng lâm sàng đa dạng, làm suy đa phủ tạng, sốc nhiễm khuẩn với tỉ lệ tử vong rất cao có thể từ 20 – 50% các trường hợp; trong đó sốc nhiễm khuẩn là một tình trạng biểu hiện trầm trọng của nhiễm trùng huyết. Trên thực tế, có một số yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến bệnh lý nhiễm trùng huyết bao gồm: người cao tuổi, trẻ sơ sinh, trẻ sinh non; người có sử dụng thuốc ức chế miễn dịch, thuốc corticoid kéo dài, thuốc chống thải ghép, đang điều trị hóa chất và tia xạ; người có bệnh mãn tính như: đái tháo đường, nhiễm HIV/AIDS, xơ gan, bệnh van tim và tim bẩm sinh, bệnh phổi mạn tính, suy thận mạn tính; người bệnh đã cắt lách, nghiện rượu, có bệnh máu ác tính, giảm bạch cầu hạt; bệnh nhân có sử dụng các thiết bị hoặc dụng cụ xâm nhập cơ thể nhưng đóng đinh nội tủy, đặt ống dẫn truyền, đặt ống nội khí quản…

                    Nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết do vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào máu hoặc từ các ổ nhiễm khuẩn ở các mô tế bào, những cơ quan như: da, mô mềm, cơ, xương, khớp, hô hấp, tiêu hóa… Các loại vi khuẩn thường gây nhiễm trùng huyết gồm vi khuẩn gram âm, vi khuẩn gram dương và vi khuẩn kỵ khí. Vi khuẩn gram âm chủ yếu là vi khuẩn đường ruột họ Enterobacteriacae như: Salmonella, Escherichia coli, Klebsiella, Serratia và các vi khuẩn Enterobacter…; ngoài ra còn có Pseudomonas aeruginosa, Burkholderia pseudomallei. Vi khuẩn gram dương thường gặp là Streptococcus pneumoniae, Staphylococcus aureus, Streptococcus suis… Vi khuẩn kỵ khí thường gặp là Clostridium perfringens và Bacteroides fragilis.

                    Điều trị và phòng bệnh

                    Việc điều trị nhiễm trùng huyết phải bảo đảm các nguyên tắc diệt mầm bệnh, điều chỉnh các rối loạn do nhiễm trùng huyết gây ra và nâng cao sức đề kháng của người bệnh. Điều trị nguyên nhân phải sử dụng kháng sinh đúng theo quy định, cần dùng kháng sinh theo mầm bệnh vi khuẩn bị nhiễm và theo kháng sinh đồ, liều thuốc kháng sinh dùng phải cao và theo đường tiêm truyền, tốt nhất là dùng đường tĩnh mạch trong những ngày đầu; nên phối hợp các kháng sinh với nhau để nâng cao hiệu lực điều trị đối với các loại vi khuẩn kháng kháng sinh và chưa xác định rõ mầm bệnh vi khuẩn. Thời gian sử dụng kháng sinh phải bảo đảm yêu cầu không được dưới 2 tuần, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà người bệnh có chỉ định phải dùng kháng sinh đến vài tháng.

                    Thuốc kháng sinh được chỉ định dùng phối hợp để điều trị bao vây khi chưa phân lập được mầm bệnh, vi khuẩn đã kháng kháng sinh hoặc tình trạng nhiễm trùng do nhiều loại vi khuẩn gây nên, dự phòng và làm chậm lại sự xuất hiện của chủng loại vi khuẩn kháng thuốc, tăng khả năng ức chế và diệt khuẩn của kháng sinh… Cần lưu ý phải giải quyết triệt để các ổ nhiễm khuẩn nguyên phát, thứ phát bằng những thủ thuật ngoại khoa như rạch dẫn lưu ổ áp-xe, lấy bỏ các nguyên nhân gây nhiễm trùng như những ống dẫn truyền, xông dẫn lưu…

                    Hiện nay, các nhà khoa học khuyến cáo nên sử dụng một số loại thuốc kháng sinh phù hợp để giải quyết nguyên nhân gây nhiễm trùng huyết có hiệu quả trên thực tế. Nếu nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram dương thường dùng kết hợp kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ I với nhóm quinolon hoặc nhóm aminoglycozid. Nếu nhiễm trùng huyết do vi khuẩn gram âm thường dùng kết hợp kháng sinh nhóm cephalosporin thế hệ III với nhóm quinolon hoặc nhóm amiloglycozid.

                    Người lớn sốt cao trên 38oC, huyết áp tâm thu dưới 90mmHg, có thể là dấu hiệu nhiễm trùng máu

                    Ngoài điều trị đặc hiệu với các thuốc kháng sinh phù hợp, người bệnh còn cần phải được điều trị theo cơ chế bệnh sinh như: điều chỉnh rối loạn nước và điện giải, giải độc bằng các loại dung dịch Dextro, Ringer lactat; chống toan hóa máu với độ pH dưới 7,2 bằng dung dịch bicarbonat; khi có hội chứng đông máu nội mạch lan tỏa DIC (disseminated intravascular coagulation) phải điều trị bằng heparin; dùng thuốc và phương pháp trợ tim mạch, hồi sức hô hấp và tuần hoàn; điều trị tình trạng sốc nhiễm khuẩn; tăng cường sức đề kháng của cơ thể bằng truyền máu, chất đạm và vitamin; thực hiện chế độ ăn với tiêu chuẩn tăng chất đạm, nhiều hoa quả…

                    Việc phòng bệnh nhiễm trùng huyết muốn đạt được hiệu quả tốt cần phải thực hiện công tác vô trùng trong bệnh viện một cách chặt chẽ; đặc biệt là khi làm các phẫu thuật, thủ thuật… Lưu ý điều trị triệt để các bệnh có ổ mủ và ổ áp-xe; không được tự nặn, chích sớm những mụn nhọt viêm nhiễm ở ngoài da như đinh râu là một loại mụn độc thường xuất hiện ở vùng quanh miệng, hậu bối là bệnh về da liên quan đến nhóm các nang lông tóc gồm nhiều nhọt cụm lại với nhau… Nên dùng kháng sinh sớm, đủ liều, có hiệu quả ngay từ đầu trong những bệnh tiên lượng có thể chuyển sang nhiễm trùng huyết do nhiễm tụ cầu khuẩn Staphylococcus, liên cầu khuẩn Streptococcus, phế cầu khuẩn Pneumococcus, các loại vi khuẩn đường ruột Enterococcus. Khi dùng các thuốc ức chế miễn dịch cần có chế độ giám sát chặt chẽ và sử dụng cùng với các thuốc để tăng sức đề kháng của bệnh nhân.

                    Exit mobile version