Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Tìm Hiểu Bệnh Thận Bẩm Sinh Và Di Truyền

Bệnh thận bẩm sinh và di truyền thường biểu hiện ở những người trẻ tuổi, trong số đó có một số loại bệnh rất hiếm gặp.

Trong nhóm bệnh này thường được chia ra:

  • Những bệnh nang thận và những bệnh giảm sản thận.
  • Những bệnh ống thận di truyền.
  • Những bệnh thận nguồn gốc chuyển hoá.
  • Những bệnh cầu thận di truyền.

Những bệnh nang thận

Đây là một nhóm bệnh thận mà có điểm chung là tồn tại những nang ở thận. Bao gồm:

  • Thận đa nang di truyền theo kiểu gen trội (Thận đa nang người lớn)
  • Thận đa nang di truyền theo kiểu gen lặn (Thận đa nang trẻ em): ít gặp, thường được phát hiện ngay sau sinh hoặc trước 10 tuổi. Tiên lượng rất xấu, ít khi sống được đến tuổi thanh niên.
  • Những nang ở tuỷ thận: bao gồm dãn phình ống trước đài thận và phức hợp những bệnh lý nang tuỷ thận.
  • Thận đa nang ở người lớn
  • Đây là loại bệnh nang thận gặp nhiều nhất so với các loại khác.

Dịch tễ học

Theo P. Barjon tỷ lệ mắc thận đa nang người lớn là khoảng 1/1250 dân. Ở các trung tâm lọc máu và ghép thận của các nước Châu Âu, Hoa Kỳ thận đa nang chiếm tỷ lệ 10% trong các nguyên nhân gây suy thận mạn giai đoạn cuối. Ở Việt Nam chưa có thống kê đầy đủ nhưng nhìn chung thì tần suất không lớn so với các dạng bệnh khác.

Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh

Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh của thận đa nang cho đến nay có nhiều điểm chưa được hiểu rõ. Cần nhắc lại rằng trong thời kỳ phôi thai thận được phát triển qua ba hình thái nối tiếp nhau: đầu tiên là Pronephros đến Mesonephron và cuối cùng là Metanephros. Sự hình thành và hoàn chỉnh bộ máy thận tiết niệu này có mật mã di truyền nhất định.

Furgusson nhận xét rằng bệnh thận đa nang di truyền ngang nhau cho cả hai giới nam và nữ theo kiểu gen thận trội mang đến. Dalgard nghiên cứu phả hệ 284 bệnh nhân và gia đình đã khẳng định tính di truyền của thận đa nang.

Các tác giả Frances A Flinter, Frederic L.Loe và Satish Kathpalial đã chứng minh rằng bệnh thận đa nang ở người lớn tính di truyền được liên kết trong hầu hết các gia đình qua phức hệ gen alpha globulin và gen phosphoglyxeral kinase trên nhánh ngắn của nhiều sắc thể 16. Tần suất biểu hiện của gen là 100% ở tuổi 80 trở lên, có nghĩa ở người có bản chất di truyền thận đa nang nếu sống được từ 80 tuổi trở lên thì khả năng bị thận đa nang là 100%. Nguyên nhân gì đã dẫn đến rối loạn di truyền đó thì chưa biết rõ.

Về cơ chế hình thành nang vẫn còn bàn cãi. Nhưng người ta cũng biết chắc rằng các nang này hình thành từ những thành phần của néphron nhất là ống góp và quai Henle. Hai bất thường có thể giải thích sự hình thành nang là:

  • Có những tổn thương ở màng đáy ống thận, điều này làm dãn ống thận.
  • Tăng sản các tế bào ống dẫn đến tắc nghẽn từng phần trong lòng ống thận.
  • Giải phẩu bệnh
  • Tổn thương thận thường cả hai bên. Thận gia tăng kích thước dần, trọng lượng của 1 thận có đa nang có thể nặng từ 2000 đến 4000g. Trong thận có nhiều nang, lớn nhỏ không đều nhau, đường kính từ 0,3 – 0,5 cm.
  • Các nang thận chứa dịch không màu hoặc có màu vàng rơm, màu nâu đen có khi có máu khi có xuất huyết trong nang hoặc dưới dạng dịch keo đặc.
  • Những thương tổn ngoài thận có thể gặp kèm trong thận đa nang gồm: gan đa nang (30%), ít gặp hơn là nang ở lách, buống trứng, tuỵ… Những tổn thương về mạch máu cũng được ghi nhận trong 10 đến 20% cuả thận đa nang bao gồm: phình động mạch nội sọ, phình động mạch chủ. Những bất thường ở tim có thể gặp kèm theo là sa van 2 lá trong 1/4 trường hợp, hở van 2 lá, van 3 lá hoặc van động mạch chủ.

Lâm sàng và cận lâm sàng

Tuy là một bệnh bẩm sinh và di truyền nhưng thận đa nang ở người lớn thường được phát hiện ở tuổi trên dưới 40. Đôi lúc được phát hiện một cách tình cờ qua xét nghiệm siêu âm.

Lâm sàng

Bệnh không có triệu chứng lâm sàng trong một thời gian dài. Lý do khiến bệnh nhân đi khám bệnh của bệnh thận đa nang có thể là: cơn đau quặn thận, đau tức bụng khó chịu, bệnh nhân tự sờ thấy khối u ở bụng, tiểu máu, tăng huyết áp, đôi khi bệnh nhân đến khám lần đầu tiên nhưng đã là các triệu chứng của suy thận cấp hoặc suy thận mạn. Triệu chứng lâm sàng khi bệnh đã rõ bao gồm:

  • Bụng to lên, tức bụng khó chịu.
  • Đau vùng hông, thắt lưng.
  • Đái ra máu: khi bệnh thận đa nang có sỏi hay khi chấn thương, bội nhiễm nang.
  • Tăng huyết áp: gặp ở 75% trường hợp.
  • Thận lớn khi khám, có tính chất là bề mặt gồ ghề, nhiều múi, thận lớn thường cả hai bên nhưng không cân xứng.

Ngoài ra còn có những biểu hiện lâm sàng khác thường kết hợp là:

  • Nang ở gan: 30%
  • Nang ở lách, tuỵ, buồng trứng, phổi… – Hở van 2 lá, 3 lá, van động mạch chủ – Tai biến mạch máu não…

Xét nghiệm cận lâm sàng

Nhóm xét nghiệm khẳng định chẩn đoán:

Siêu âm thận: là biện pháp hữu hiệu nhất để phát hiện thận đa nang. Có thể phát hiện được cả những nang đường kính nhỏ hơn 0,5cm. Đây là kỹ thuật giúp chẩn đoán sớm bệnh thận đa nang.

Chụp cắt lớp vi tính (CT Scanne): tốn kém hơn siêu âm nhiều

Chụp nhuộm thận cản quang bằng đường tỉnh mạch (UIV): Có thể phát hiện thận to. Đài thận bị kéo dài thành hình kiểu “chân nhện” có khi chỉ 1,2 đài thận bị kéo dài. Góc đài thận vẫn sắc chỉ tù vẹt khi đã có viêm mạn tính. Các đài lớn cũng bị chèn lấn, chít hẹp, kéo dài.

Chụp bơm hơi sau phúc mạc: phát hiện được thận lớn, mặt thận không đều, có nhiều đáy gồ ghề thành múi. Hiện nay ít sử dụng.

Những xét nghiệm khác:

Công thức máu: Có hiện tượng tăng tiết Erythropoietin nên ít gặp thiếu máu ngay cả khi đã suy thận mạn.

  • Prôtêin niệu thường có nhưng không cao.
  • Nước tiểu có hồng cầu, bạch cầu khi có biến chứng tiểu máu, nhiễm trùng niệu.
  • X quang thận không chuẩn bị: 10% có sỏi thận tiết niệu.

Chức năng thận: Giảm khi có suy thận.

Chẩn đoán bệnh thận đa nang ở người lớn

Những tình huống dẫn đến chẩn đoán

Cơ địa: trung niên (hiếm khi ở người cao tuổi)

Những biến chứng của bệnh:

  • Nặng tức vùng thắt lưng.
  • Đau thắt lưng
  • Đái máu đại thể.
  • Cơn đau quặn thận
  • Nhiễm trùng nang
  • Hoặc phát hiện một cách tình cờ:
  • Khi khám một cách hệ thống Khi hỏi tiền sử về gia đình.
  • Đôi khi qua những biểu hiện ngoài thận (ví dụ: nang gan).

Những tiêu chuẩn chẩn đoán

Chẩn đoán dựa trên siêu âm thận. Siêu âm thận thấy thận lớn cả hai bên với nhiều nang của hai bên thận. Cần lưu ý độ nhạy của siêu âm trong phát hiện nang tuỳ thuộc vào độ tuổi của người bị bệnh thận đa nang đến khám.

Theo tác giả Ravine đề nghị những tiêu chuẩn chẩn đoán thận đa nang trong khung cảnh điều tra gia đình của một thành viên trong gia đình đó đã được chẩn đoán thận đa nang.

Bảng 1: Chẩn đoán thận đa nang theo Ravine

Tuổi Tiêu chuẩn siêu âm
Dưới 30 tuổi Ít nhất 2 nang tại thận (1 hoặc 2 bên)
Từ 30 đến dưới 60 tuổi Ít nhất 2 nang trong mỗi thận
Trên 60 tuổi Ít nhất 4 nang trong mỗi thận

Chẩn đoán phân biệt

Thận đa nang ở người lớn là những bệnh nang thận di truyền thường gặp nhất ở người lớn. Bệnh này chiếm khoảng 10% nguyên nhân gây suy thận mạn giai đoạn cuối ở các nước châu Âu. Khi chẩn đoán cần phân biệt với các bệnh nang thận khác theo bảng dưới đây

Bảng 2: Các bệnh nang thận thường gặp

Những nang thận

Loại Tuổi trung bình lúc chẩn đoán Tuổi bị suy thận mạn Tần suất
Di truyền:

– Thận đa nang:

Theo gen trội

Theo gen lặn

– Những nang ở vùng tuỷ thận

 

30-40

0-10

< 30

 

 

50

0-10

< 20

 

1/1.000 1/40.000

?

Không di truyền:

Nang đơn

Thận bọt biển

Những nang thận mắc phải sau khi đã bị suy thận mạn lọc máu chu kỳ

Người lớn

Người lớn

Bệnh nhân máu lọc

Không suy thận mạn Không suy thận mạn

50 tuổi

50%

?

1/5.000

Những nang ở tuỷ thận

Bệnh bọt biển tuỷ thận

Là bệnh thường gặp trong các bệnh nang tuỷ thận. Theo Gardener tỷ lệ có thể từ 1/500 đến 1/2000 dân và chiếm 1/ 200 bệnh nhân có bệnh đường tiết niệu. Ở Việt Nam chưa phát hiện được.

Thận không to, chỉ 30% là to hơn bình thường

Nang thận phát triển do phình giãn ống góp và nằm ở vùng núm thận hoặc vùng tháp Malpighi ở tuỷ thận. Nang có cả hai bên nhưng cũng có trường hợp chỉ bị một bên. Nang chứa dịch có nhiều lắng đọng calci nên biến chứng thường gặp nhiều nhất là sỏi thận, tiết niệu.

Bệnh xơ nang tuỷ thận

Là một loại bệnh thận có nhiều nang cả hai bên nhưng thận không to lên mà lại bị co nhỏ, xơ sẹo. Triệu chứng lâm sàng là đái đêm, đái nhiều, khát, tỉ trọng nước tiểu thấp do có viêm kẽ thận. Giảm khả năng cô đặc của thận là triệu chứng xuất hiện sớm nhất. Tăng huyết áp là ít gặp. Có trường hợp có biểu hiện tóc đỏ, có trường hợp kết hợp viêm võng mạc sắc tố. Triệu chứng cận lâm sàng như đái máu, protein niệu, trụ niệu, bạch cầu niệu, vi khuẩn niệu là ít gặp. Khi có lặp đi lặp lại những rối loạn về xét nghiệm nước tiểu thì cần tìm nguyên nhân khác hơn là xơ nang tuỷ thận.

Nang thận trong xơ nang tuỷ thận không có ở vỏ thận, có đối xứng cả hai bên và phát triển từ ống góp và quai Henle. Nang chỉ khu trú ở thận, không có kết hợp nang ở cơ quan khác. Khoảng 50% trường hợp có biểu hiện di truyền kiểu gen lặn. Có trường hợp có di truyền kiểu gen trội. Do đó xơ nang tuỷ thận có rất nhiều biến thể mà nhiều tác giả đã đặt tiêu đề là phức hợp nang tuỷ thận để chỉ nhóm bệnh này.

Các bệnh nang ở thận khác

  • Thận nang đơn

Nang nằm ở vỏ thận, một nang đơn độc hoặc nhiều nang đơn. Nang nhô hẳn ra phía trước bề mặt của thận. Nang thường là bé chứa dịch trong hoặc màu vàng rơm, thành phần giống dịch lọc cầu thận. Bệnh thường gặp ở người có tuổi nên dễ nhầm với thận đa nang. Tuy nhiên bệnh ít có biểu hiện lâm sàng và được phát hiện thường là ngẫu nhiên qua chụp X quang và siêu âm bụng vì những lý do khác. Khi cần chẩn đoán phân biệt có thể chọc hút dịch nang thận. Ung thư nếu có thì trong dịch có tế bào ung thư hoặc máu.

  • Bệnh thận nhiều nang bẩm sinh

Bệnh thận nhiều nang bẩm sinh thuộc nhóm loạn sản thận, nang ở tất cả các lứa tuổi, là hậu quả của sự rối loạn cơ chế sinh thận làm cho toàn bộ, một phần hoặc nhiều ổ của một hoặc cả hai thận biến thành một cấu trúc không thuộc bất cứ giai đoạn nào của sự hình thành thận.

Bệnh thận nhiều nang bẩm sinh khác hẳn với thận đa nang là không có tính chất di truyền và chỉ thường bị một bên. Tần suất không lớn cho nên không có tư liệu. Phát hiện được cả ở trẻ em trong gia đình cùng bị. Bên cạnh nang có những đám tổ chức thận bình thường, tổ chức đệm biệt hoá không đầy đủ, một số ống thận có biểu mô không điển hình, có những ổ có tổ chức mỡ, sụn và tổ chức tạo huyết. Chẩn đoán phát hiện. Chẩn đoán xác định nhờ chụp động mạch thận. Vùng nang thận là không có chức năng.

Về điều trị thì cần kết hợp cắt thận khi có chấn thương chảy máu, nhiễm khuẩn tái phát. Tiên lượng ở người lớn là tốt, chỉ bị có một bên.

  • Thận đa nang mắc phải

Là một bệnh cảnh mới được mô tả trong những năm gần đây và xuất hiện chủ yếu là ở những bệnh nhân được lọc máu thận nhân tạo chu kì trên 3 năm. Bệnh nhân không có tiền sử thận đa nang và mới xuất hiện trong quá trình lọc thận nhân tạo.

Nang có thể bị vỡ gây chảy máu đột ngột. Có thể phát hiện ung thư. Tỷ lệ mắc phải trong quá trình lọc thận nhân tạo nhiều ngày là 30 – 50%.

Những bệnh ống thận di truyền

Đây là nhóm bệnh có tồn tại những bất thường ở ống thận làm giảm chức năng tái hấp thu hoặc bài tiết của ống thận. Thường gặp ở lứa tuổi nhỏ: sơ sinh, trẻ em. Bao gồm:

Những bất thường về vận chuyển phosphate tại thận

Di truyền qua nhiễm sắc thể. Những triệu chứng chính là còi xương hoặc nhuyễn xương, giảm phosphat máu và tăng phosphate niệu, canxi máu bình thường, canxi niệu bình thường hoặc giảm.

Những bất thường về vận chuyển những acide amin Bao gồm bệnh cystin niệu và bệnh Hartnup.

Bệnh Cystin niệu: đặc trưng với bài tiết nhiều những acid amin lysin, arginine, ornithine, cystin nhưng tái hấp thu ống thận là bình thường. Là bệnh di truyền theo gen lặn. Trong các acid amin kể trên chỉ có cystin là có thể bị ở dưới dạng kết tinh dẫn đến sỏi.

Bệnh Harnup:Là bệnh lý bài tiết nhiều acid amin loại mono-amino mono carboxylique (chủ yếu là phénylalamin và tryptophane). Di truyền theo gen lặn. Có thể gây nên những thương tổn ở da dạng Pellagroid, những biểu hiện ở thần kinh (mất điều hoà tiểu não), giảm trí nhớ.

Những bất thường của vận chuyển glucose, đái đường thận.

Đường niệu nhiều (5 đến 100g/ngày) nhưng không tăng đường máu. Nghiệm pháp dung nạp glucose bình thường. Tiến triển thường lành tính. Đây là một bệnh di truyền theo kiểu gen trội hoặc lặn. Thương tổn ống thận là phức tạp bao gồm giảm khả năng vận chuyển glucose ở ống lượn gần hoặc giảm ngưỡng vận chuyển.

Đái tháo nhạt thận.

Là một rối loạn đặc trưng với mất tính nhạy cảm của những tế bào ống thận với tác động của arginine vasopressine (nội sinh hoặc ngoại sinh). Rối loạn này có thể mắc phải hoặc di truyền gắn liền với mhiễm sắc thể X.

Nhiễm toan ống thận

Là bệnh lý không cá khả năng thiết lập độ chênh (gradient) bình thường giữa máu và nước tiểu (toan hoá do ống lượn xa) hoặc do mất nhiều bicarbonat (toan hoá ống lượn gần).

Hội chứng Fanconi

Đây là một tập hợp nhiều bất thường của ống lượn gần, liên quan đến acid amin, Glucose, phôtphát, bicarbonat, acid urique, Kali.Triệu chứng bao gồm lùn hoặc bệnh nhuyễn xương, hoặc kém phát triển ở trẻ em, toan chuyển hoá, hạ kali máu.

Hội chứng này có thể thứ phát sau những rối loạn chuyển hoá (Bệnh Cystinose, Galactose, rối loạn dung nạp Fructose, Glycogenose, Bệnh Wilson) hoặc vô căn và đôi khi có tính gia đình.

IV Những bệnh cầu thận di truyền

Hội chứng Alport

Gồm bệnh lý cầu thận di truyền kèm với điếc. Là bệnh lý di truyền di truyền theo gen trội, gắn liền với nhiễm sắc thể X, đôi khi liên quan với giới tính (gặp nhiều ở nam giới). Chiếm 5% nguyên nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chạy thận nhân tạo ở các nước Âu Mỹ. Bệnh thường xuất hiện ở độ tuổi 6 tuôỉ (70% trường hợp), với triệu chứng đái máu đại thể, tái phát nhiều lần hoặc dưới dạng đái prôtêin đơn độc hoặc hội chứng thận hư (25%). Từ 30 đến 50% có kèm với điếc.

Hội chứng Fabry

Là bệnh lý di truyền gắn liền với nhiễm sắc thể X, do thiếu hụt men alpha – galactosidase đến tích luỹ những glycophingolipide trung tính. Tổn thương thận được thể hiện bằng prôtêin niệu, đái máu vi thể, thường dẫn đến suy thận mạn giai đoạn cuối ở độ tuổi50.

Điều trị:

Trong khuôn khổ bài này chỉ giới thiệu điều trị và phòng bệnh thận đa nang ở người lớn.

Điều trị bệnh thận đa nang.

Không có điều trị đậc hiệu Chủ yếu là điều trị các biến chứng và tác động vào những yếu tố nguy cơ nếu được của bệnh.

Về phương diện ngoại khoa việc chọc hút nang và cắt bỏ thận đa nang chỉ là những trường hợp cá biệt.

Trong điều trị thận đa nang trước khi suy thận mạn cần chú ý:

  • Khống chế huyết áp tốt
  • Đưa huyết áp người bệnh xuống dưới hoặc bằng 130/85 mmHg. Phần lớn các thuốc hạ huyết áp là có hiệu quả, tuy nhiên ba nhóm thuốc hạ huyết áp được chọn lựa trong bệnh thận đa nang là: ức chế men chuyển, lợi tiểu, ức chế bêta. Như các bệnh thận khác, kiểm tra chức năng thận đều đặn cần thực hiện khi sử dụng nhóm thuốc ức chế men chuyển.
  • Chống mất nước, rối loạn điện giải
  • Phải thận trọng khi chỉ định dùng lợi tiểu trong thận đa nang vì có thể gây mất nước, truỵ mạch, mất nhiều natri, kali.
  • Nếu có đái máu đại thể thì cần tìm nguyên nhân để loại bỏ nguyên nhân.
  • Xử trí sỏi thận tiết niệu nếu có.
  • Điều trị kịp thời các đợt nhiễm khuẩn tiết niệu, đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình suy thận.
  • Điều trị rối loạn Lipide máu nếu có.

Biến chứng của thận đa nang đẫn đến suy thận mạn giai đoạn cuối phụ thuộc vào độ tuổi và các yếu tố nguy cơ:

+Suy thận mạn do thận đa nang phụ thuộc vào tuổi

Bảng 3: Lứa tuổi và khả năng suy thận mạn trong bệnh thận đa nang

Tuổi Khả năng suy thận mạn
≤ 40 tuổi 2%
40 < tuổi ≤ 50 20 -25%
50 < tuổi ≤ 65 40%
Tuổi > 65 50 – 70%

Sau đây là những yếu tố được gọi là yếu tố nguy cơ dẫn đến suy thận mạn của bệnh thận đa nang:

  • Chẩn đoán sớm.
  • Nam giới.
  • Gène PKD1.
  • Tăng huyết áp.
  • Tăng kích thước thận.

Khi thận đa nang đã có biến chứng suy thận mạn giai đoạn cuối. Điều trị thay thế thận suy có các điều lưu ý:

-Lọc màng bụng cần tránh vì thận đa nang có thận rất lớn làm khó khăn cho kỹ thuật này.

Khi ghép thận cần phẫu thuật lấy bỏ thận đa nang trước kho ghép vì lí do thận đa nang có thể chèn ép vào thận được ghép.

Phòng bệnh thận đa nang

Về phòng bệnh trong thận đa nang thì quan trọng nhất là phát hiện sớm, có biện pháp kéo dài đời sống cho bệnh nhân vì đa số bệnh nhân đến tuổi 50 là có suy thận nặng.

Đối với các gia đình đã có người bị bệnh thận đa nang. Cần khám bệnh và làm siêu âm hàng loạt cho các thành viên trong gia đình kể cả trẻ em và người lớn. Siêu âm có thể phát hiện đa nang trước khi có biểu hiện lâm sàng. Cần chủ ý kết hợp phát hiện gan đa nang vì 30% bệnh nhân có gan thận đa nang.

Khi đã phát hiện có thận đa nang thì cần theo dõi và điều trị kịp thời các biến chứng như tăng huyết áp, sỏi thận và nhất là nhiễm khuẩn tiết niệu.

Đối với các thầy thuốc thực hành cần chú ý khi bệnh nhân đến khám với các triệu chứng đái máu, tăng huyết áp, đa hồng cầu, thận lớn, suy thận… để phát hiện sớm bệnh thận đa nang.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Gãy xương đùi có thể gây ra biến chứng gì cho bệnh nhân?

Gãy xương đùi có thể gây ra nhiều biến chứng đáng lo ngại cho bệnh nhân. Đau và khó di chuyển là biến chứng phổ biến, khiến cho hoạt động hàng ngày trở nên khó khăn, hãy cùng phân tích trong bài viết sau đây!

Gãy xương đùi có thể gây ra biến chứng gì cho bệnh nhân?

Biến chứng do gãy xương đùi gây ra

Chuyên gia Cao đẳng Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng tại Cao đẳng Y Dược TP.HCM chia sẻ: Gãy xương đùi có thể gây ra nhiều biến chứng và ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân. Dưới đây là một số biến chứng phổ biến:

  1. Đau và khó di chuyển: Gãy xương đùi thường đi kèm với đau và khó di chuyển, đặc biệt là khi bệnh nhân cố gắng di chuyển hoặc đứng lên.
  2. Viêm nhiễm: Gãy xương đùi có thể dẫn đến viêm nhiễm tại khu vực gãy, đặc biệt là nếu da bị thủng và xâm nhập vi khuẩn từ bên ngoài.
  3. Mất máu: Gãy xương đùi nặng có thể gây mất máu nếu có sự tổn thương đến các mạch máu lớn trong khu vực gãy.
  4. Căng thẳng tinh thần: Biến chứng này thường xảy ra khi bệnh nhân phải đối mặt với sự hạn chế về hoạt động hàng ngày và sự phụ thuộc vào người khác.
  5. Phù nề: Việc giữ một vị trí cố định trong thời gian dài có thể gây phù nề hoặc sưng tấy ở khu vực gãy.
  6. Suy giảm sự linh hoạt và sức mạnh: Sau khi gãy xương đùi, bệnh nhân thường cần thời gian dài để hồi phục, và việc này có thể dẫn đến suy giảm sự linh hoạt và sức mạnh trong cơ bắp xung quanh khu vực gãy.
  7. Căng thẳng tinh thần: Bệnh nhân có thể trải qua cảm giác lo lắng, trầm cảm hoặc tự ti do hạn chế về khả năng di chuyển và hoạt động.
  8. Các vấn đề về khả năng đi lại: Trong một số trường hợp nghiêm trọng, gãy xương đùi có thể dẫn đến việc mất khả năng đi lại hoặc yếu tố cố định, đặc biệt là nếu không chữa trị đúng cách.

Gãy xương đùi có những phân loại gãy nào?

Gãy xương đùi thuộc nhóm bệnh cơ xương khớp có thể được phân loại dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm vị trí của gãy, hình dạng của mảnh gãy, và mức độ di chuyển của các mảnh gãy. Dưới đây là một số phân loại chính:

  1. Gãy xương đùi một phần (fracture of the femoral neck): Gãy này xảy ra gần đầu xương đùi, nơi xương nối vào khớp háng. Đây là một trong những loại gãy phổ biến ở người già, thường xảy ra do suy giảm cấu trúc xương do tuổi tác.
  2. Gãy xương đùi giữa (transverse fracture): Gãy này xảy ra khi xương bị gãy ngang theo một đường thẳng.
  3. Gãy xương đùi nứt (stress fracture): Gãy này thường xảy ra do căng thẳng lặp đi lặp lại trên xương, thường gặp ở những người thể thao hoặc người phải đối mặt với các tác động lực lượng kéo dài.
  4. Gãy xương đùi hở (open or compound fracture): Gãy này xảy ra khi có một lỗ hoặc vết thương trên da ở nơi xương bị gãy, có thể dẫn đến nguy cơ nhiễm trùng cao.
  5. Gãy xương đùi nhiều phần (comminuted fracture): Gãy này xảy ra khi xương bị gãy thành nhiều mảnh.
  6. Gãy xương đùi xuyên qua (oblique fracture): Gãy này xảy ra khi xương bị gãy theo một đường chéo.
  7. Gãy xương đùi xoắn (spiral fracture): Gãy này xảy ra khi xương bị xoắn, thường gặp khi có một lực tác động xoắn lên xương.

Phân loại này có thể giúp bác sĩ xác định phương pháp điều trị phù hợp và dự đoán kết quả của việc chữa trị.

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng 

Gãy xương đùi bao lâu thì liền xương?

Bác sĩ tại các trường Cao đẳng Y Dược Hà Nội và TP.HCM cho rằng, thời gian cần thiết để gãy xương đùi liền lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm:

  1. Loại gãy: Các loại gãy khác nhau có thể đòi hỏi thời gian liền lại khác nhau. Ví dụ, gãy đơn giản và gãy không di chuyển thường liền lại nhanh hơn so với gãy phức tạp hoặc gãy mà mảnh xương bị di chuyển nhiều.
  2. Độ tuổi và sức khỏe của bệnh nhân: Sức khỏe tổng thể và khả năng của cơ thể để làm mới xương có thể ảnh hưởng đến thời gian liền lại. Người trẻ khỏe mạnh thường có thể liền lại nhanh hơn người già hoặc người có các vấn đề sức khỏe khác.
  3. Phương pháp điều trị: Cách điều trị cũng ảnh hưởng đến thời gian liền lại. Việc sử dụng gips, đinh vít, hoặc phẫu thuật có thể ảnh hưởng đến quá trình hồi phục và thời gian liền lại.
  4. Tuân thủ điều trị và chăm sóc: Việc tuân thủ các hướng dẫn điều trị và chăm sóc sau gãy xương cũng quan trọng. Điều này bao gồm việc tuân thủ lịch trình hồi phục, tham gia vào các buổi tập vận động được chỉ định và duy trì một chế độ dinh dưỡng lành mạnh.

Thường thì, quá trình liền lại xương đòi hỏi từ vài tuần đến vài tháng, tùy thuộc vào các yếu tố trên. Bác sĩ chuyên khoa sẽ có thể cung cấp thông tin chi tiết và dự đoán thời gian liền lại cụ thể dựa trên trường hợp của từng bệnh nhân.

Nguồn:  benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Bệnh Sinh Và Điều Trị Loét Dạ Dày Tá Tràng

Tần suất bệnh tiến triển theo thời gian và thay đổi tùy theo nước, hoặc là theo khu vực. Giữa thế kỷ 20, tần suất loét dạ dày không thay đổi, nhưng loét tá tràng có xu hướng tăng, và hiện nay tỉ lệ loét tá tràng /loét dạ dày là 2/1, và đa số gặp ở nam giới. Có khoảng 10-15% dân chúng trên thế giới bị bệnh Loét dạ dày tá tràng. Hiện nay có khoảng 10% dân chúng trên thế giới bị Loét dạ dày tá tràng.

  • em

Bệnh sinh

Pepsine: Được tiết ra dưới dạng tiền chất pepsinnogene dưới tác động của acid HCL biến thành pepsine hoạt động khi pH <3, 5 làm tiêu hủy chất nhầy và collagen.

Sự phân tán ngược của ion H+: Tiến trình loét được khởi phát do tăng tiết HCL do lượng tế bào thành quá nhiều hoặc quá hoạt động, do đó lượng dịch vị cơ bản hoặc sau kích thích rất gia tăng, sự phân tán ngược và sự đi vào của ion Hlàm thương tổn thành dạ dày và gây ra loét; do đó làm trung hòa ion Hđã làm giảm tỉ lệ loét rất nhiều. Nguy cơ loét càng cao khi sự tiết acid càng nhiều.

Yếu tố bảo vệ của niêm mạc dạ dày

  • Hàng rào niêm dịch: để chống lại sự tấn công của ion H+, yếu tố chính là lớp niêm dịch giàu bicarbonate tạo bởi glycoprotéine có chứa các phospholipides không phân cực, nằm trên bề mặt của lớp gel này có tính nhầy đàn hồi. Khi pepsine cắt chuỗi peptide phóng thích các tiểu đơn vị glycoproteines; chúng làm mất tính chất nhầy đàn hồi nầy. Các ion Hxâm nhập vào lớp nhầy, nhưng chúng bị trung hòa bởi bicarbonate. Nhưng khi pH<1, 7 thì vượt quá khả năng trung hoà của nó và ion Hđến được lớp niêm mạc dạ dày và gây ra loét.
  • Lớp niêm mạc dạ dày: tiết ra glycoproteines, lipides và bicarbonate, chúng có khả năng loại bỏ sự đi vào bào tương của ion Hbằng 2 cách: trung hòa do bicarbonate, và đẩy ion Hvào khoảng kẽ nhờ bơm proton H+- K- ATPase.
  • Lớp lamina propria: phụ trách chức năng điều hòa. Oxy và bicarbonate được cung cấp trực tiếp cho hạ niêm mạc bởi các mao mạch có rất nhiều lổ hở, mà các tế bào này rất nhạy cảm với toan chuyển hóa hơn là sư thiếu khí. Một lượng bicarbonate đầy đủ phải được cung cấp cho tế bào niêm mạc để ngăn chận sự acid hóa trong thành dạ dày gây ra bởi ion Hxuyên qua hàng rào niêm mạc này.
  • Vi Khuẩn H.P: gây tổn thương niêm mạc dạ dày tá tràng đồng thời sản xuất ra amoniac làm môi trường tại chổ bị acid để gây ra ổ loét. HP sản xuất men urease làm tổn thương niêm mạc dạ dày; nó cũng sản xuất ra proteine bề mặt, có hoá ứng động (+) với bạch cầu đa nhân trung tính và monocyte. Nó còn tiết ra yếu tố hoạt hoá tiểu cầu, các chất tiền viêm, các chất superoxyde, interleukin 1 và TNF là những chất gây viêm và hoại tử tế bào. HP còn sản xuất ra các men protease, phospholipase làm phá huỷ chất nhầy niêm mạc dạ dày.

Nguyên nhân bệnh loét dạ dày tá tràng

Di truyền: cho rằng loét tá tràng có tố tính di truyền, tần suất cao ở một số gia đình và loét đồng thời xảy ra ở 2 anh em sinh đôi đồng noãn, hơn là dị noãn.

Yếu tố tâm lý: hai yếu tố cần được để ý là nhân cách và sự tham gia của stress trong loét. Thể tâm thần ảnh hưởng lên kết quả điều trị, loét cũng thường xảy ra ở ngườì có nhiều san chấn tình cảm, hoặc trong giai đoạn căng thẳng tinh thần nghiêm trọng như trong chiến tranh.

Rối loạn vận động: đó là sự làm vơi dạ dày và sự trào ngược của tá tràng dạ dày. Trong loét tá tràng có sự làm vơi dạ dày quá nhanh làm tăng lượng acid tới tá tràng. Ngược lại trong loét dạ dày sự làm vơi dạ dày quá chậm, gây ứ trệ acide ở dạ dày.

Yếu tố môi trường

Yếu tố tiết thực: không loại trừ loét phân bố theo địa dư là có sự đóng góp của thói quen về ăn uống. Như ở Bắc Ấn ăn nhiều lúa mì loét ít hơn ở miền Nam ăn toàn gạo. Thật vậy nước bọt chứa nhiều yếu tố tăng trưởng thượng bì làm giảm loét. Caféine và calcium là những chất gây tiết acide; rượu gây tổn thương niêm mạc dạ dày.

Thuốc lá: loét dạ dày tá tràng thường gặp ở người hút thuốc lá, thuốc lá cũng làm xuất hiện các ổ loét mới và làm chậm sự lành sẹo hoăc gây đề kháng với điều trị. Cơ chế gây loét của thuốc lá vẫn hoàn toàn chưa biết rõ có thể do kích thích dây X, hủy niêm dịch do trào ngược tá tràng dạ dày hoặc do giảm tiết bicarbonate.

Thuốc

Aspirin: gây loét và chảy máu, gặp ở dạ dày nhiều hơn tá tràng, do tác dụng tại chổ và toàn thân. Trong dạ dày pH acide, làm cho nó không phân ly và hòa tan được với mỡ, nên xuyên qua lớp nhầy và ăn mòn niêm mạc gây loét. Toàn thân do Aspirin ức chế Prostaglandin, làm cản trở sự đổi mới tế bào niêm mạc và ức chế sự sản xuất nhầy ở dạ dày và tá tràng.

Nhóm kháng viêm nonsteroide: gây loét và chảy máu tương tự như Aspirin nhưng không gây ăn mòn tại chỗ.

Corticoide: không gây loét trực tiếp, vì chỉ làm ngăn chận sự tổng hợp Prostaglandin, nên chỉ làm bộc phát lại các ổ loét cũ, hoặc ở người có sẳn tố tính loét.

Hélicobacter Pylori (HP): đã được Marshall và Warren phát hiện năm 1983, HP gây viêm dạ dày mạn tính nhất là vùng hang vị (type B), và viêm tá tràng do dị sản niêm mạc dạ dày vào ruột non, rồi từ đó gây loét. 90% trường hợp loét dạ dày, và 95% trường hợp loét tá tràng có sự hiện diện HP nơi ổ loét.

Triệu chứng học

  • Loét dạ dày

Triệu chứng: đau là triệu chứng chính có nhiều tính chất.

  • Đau từng đợt mỗi đợt kéo dài 2 – 8 tuần cách nhau vài tháng đến vài năm. Đau gia tăng theo mùa nhất là vào mùa đông tạo nên tính chu kỳ của bệnh loét. Tuy nhiên các biểu hiện lâm sàng của viêm vùng hang vị xảy ra trước loét có thể làm mất tính chu kỳ này.
  • Đau liên hệ đến bữa ăn, sau ăn 30 phút – 2 giờ; thường đau nhiều sau bữa ăn trưa và tối hơn là bữa ăn sáng.
  • Đau kiểu quặn tức, đau đói hiếm hơn là đau kiểu rát bỏng. Đau được làm dịu bởi thuốc kháng toan hoặc thức ăn, nhưng khi có viêm kèm theo thì không đỡ hoặc có thể làm đau thêm.
  • Vị trí đau thường là vùng thượng vị. Nếu ổ loét nằm ở mặt sau thì có thể đau lan ra sau lưng. Ngoài ra có thể đau ở bất kỳ chổ nào trên bụng.
  • Một số trường hợp loét không có triệu chứng và được phát hiện khi có biến chứng.

Lâm sàng: nghèo nàn, có thể chỉ có điểm đau khi đang có đợt tiến triển, trong loét mặt trước có thể có dấu cảm ứng nhẹ vùng thượng vị. Trong đợt loét có thể sút cân nhẹ nhưng ra khỏi đợt đau sẽ trở lại bình thường.

Xét nghiệm: Các xét nghiệm sinh hóa ít có giá trị trong chẩn đoán:

  • Lưu lượng dịch vị cơ bản thấp (BAO)
  • Lưu lượng sau kích thích (MAO) bình thường hoặc giảm trong loét loại 1. Trong loét loại 2 và 3 sự tiết dịch vị bình thường hoặc tăng. Trong loét dạ dày kèm vô toan cần nghĩ đến ung thư.
  • Chụp phim dạ dày baryte và nhất là nội soi cho thấy có hình ảnh ổ loét thường nằm ở hang vị, góc bờ cong nhỏ, đôi khi thấy ở thân dạ dày hay tiền môn vị.

Loét tá tràng: xảy ra ở người lớn với mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, nhìn chung nó xảy ra trước 60 tuổi. Nam = 2 nữ và thường có yếu tố gia đình.

Triệu chứng: đau là đặc trưng của loét tá tràng thường rõ hơn loét dạ dày, vì ở đây không có viêm phối hợp. Các đợt bộc phát rất rõ ràng. Giữa các kì đau, thường không có triệu chứng nào cả. Đau xuất hiện 2 – 4 giờ sau khi ăn tạo thành nhịp ba kỳ, hoặc đau vào đêm khuya 1 – 2 giờ sáng. Đau đói và đau kiểu quặn thắt nhiều hơn là đau kiểu nóng ran. Đau ở thượng vị lan ra sau lưng về phía bên phải (1/3 trường hợp). Cũnng có 10% trường hợp không đau, được phát hiện qua nội soi hoặc do biến chứng và 10% trường hợp loét lành sẹo nhưng vẫn còn đau.

Xét nghiệm:

  • Trên 90% loét nằm ở mặt trước hoặc mặt sau của hành tá tràng cách môn vị 2 cm. Đôi khi 2 ổ loét đốí diện gọi là “Kissing ulcers”. Nội soi cho hình ảnh loét tròn, là hay gặp nhất, loét không đều, loét dọc và loét hình mặt cắt khúc dồi ý “salami” ít gặp hơn.
  • Sự tiết acid dạ dày thường cao bất thường. Nội soi và phim baryte, cho thấy ổ đọng thuốc thường nằm theo trục của môn vị ở trên hai mặt hoặc hình ảnh hành tá tràng bị biến dạng.Trong trường hợp loét mạn tính xơ hóa, hành tá tràng bị biến dạng nhiều, các nếp niêm mạc bị hội tụ về ổ loét làm môn vị bị co kéo, hoặc hành tá tràng bị chia cắt thành 3 phần tạo thành hình cánh chuồn. Một hình ảnh biến dạng không đối xứng làm dãn nếp gấp đáy ngoài và teo nếp gấp đáy trong tạo thành túi thừa Cole làm cho lổ môn vị bị đổ lệch tâm. Nội soi có thể nhận ra dễ dàng ổ loét do đáy màu xám sẩm được phủ một lớp fibrin, đôi khi được che đậy bởi các nếp niêm mạc bị sưng phù, các loét dọc khó phân biệt với một ổ loét đang lành sẹo, trong trường hợp này bơm bleu de méthylene nó sẽ nhuộm fibrin có màu xanh.
  • Định lượng acid và gastrin được chỉ định nếu nghi ngờ 1 sự tiết bất thường do u gastrin, một sự phì đại vùng hang vị, cường phó giáp hoặc suy thận.

Chẩn đoán loét dạ dày tá tràng

Chẩn đoán loét dạ dày: Đặt ra khi lâm sàng có cơn đau loét điển hình xác định bằng chụp phim dạ dày baryte và bằng nội soi. Điển hình là ổ đọng thuốc khi ổ loét ở bờ của dạ dày. Về nội soi dễ nhận ra miệng ổ loét đáy của nó phủ một lớp fibrin màu trắng xám, bờ đều hơi nhô lên do phù nề hoặc được bao quanh bởi các nếp niêm mạc hội tụ. Điều quan trọng là phải xác định bản chất của ổ loét bằng sinh thiết để phân biệt với ung thư thể loét và loét ung thư hóa.

Chẩn đoán loét tá tràng: Gợi ý bằng cơn đau loét điển hình tá tràng, thường xãy ra ở người trẻ tuổi, có nhóm máu O. Xác định bằng nội soi và phim baryte, cho thấy ổ đọng thuốc thường nằm theo trục của môn vị ở trên hai mặt hoặc hình ảnh hành tá tràng bị biến dạng.Trong trường hợp loét mạn tính xơ hóa, hành tá tràng bị biến dạng nhiều, các nếp niêm mạc bị hội tụ về ổ loét làm môn vị bị co kéo, hoặc hành tá tràng bị chia cắt thành 3 phần tạo thành hình cánh chuồn. Một hình ảnh biến dạng không đối xứng làm dãn nếp gấp đáy ngoài và teo nếp gấp đáy trong tạo thành túi thừa Cole. Nội soi có thể nhận ra dễ dàng ổ loét do đáy màu xám sẩm được phủ một lớp fibrin.

Chẩn đoán phân biệt

Viêm dạ dày mạn: Đau vùng thượng vị mơ hồ, liên tục, không có tính chu kỳ, thường đau sau ăn, kèm chậm tiêu đầy bụng. Chẩn đoán dựa vào nội soi sinh tiết có hình ảnh viêm dạ dày mạn với tẩm nhuận tế bào viêm đơn nhân, xơ teo tuyến tiết.

Ung thư dạ dày: Thường xãy ra ở người lớn tuổi, đau không có tính chu kỳ, ngày càng gia tăng, không đáp ứng điều trị loét. Cần nội soi sinh thiết nhiều mảnh cho hình ảnh ung thư dạ dày.

Viêm tuỵ mạn: Có tiền sử viêm tuỵ cấp nhất là uống rượu mạn, có thể kèm đi chảy mạn và kém hấp thu. Đau thường lan ra sau lưng ở vùng tuỵ. Xét nghiệm men amylase máu thường tăng 2-3 lần. Siêu âm và chụp phim X quang thấy tuỵ xơ teo có sỏi, ống tuỵ dãn.

Viêm đường mật túi mật mạn do sỏi: Tiền sử sỏi mật, lâm sàng có cơn đau quặn gan, nhiễm trùng và tắc mật. Chẩn đoán dựa vào siêu âm và chụp đường mật ngược dòng cho hình ảnh sỏi, túi mật xơ teo.

Biến chứng

Thường gặp là chảy máu, thủng, xơ teo gây hẹp, thủng bít hay tự do, loét sâu kèm viêm quanh tạng, đặt biệt loét dạ dày lâu ngày có thể ung thư hóa.

Chảy máu: thường gặp nhất nhưng khó đánh giá tần số chính xác. Khoảng 1520% bệnh nhân loét có một hoặc nhiều lần chảy máu; loét tá tràng thường chảy máu (17%) so với dạ dày (12%), người già chảy máu nhiều hơn người trẻ. Biến chứng chảy máu thường xảy ra trong đợt loét tiến triển nhưng cũng có thể là dấu hiệu đầu tiên.

  • Chẩn đoán dựa vào nội soi cần thực hiện sớm khi ra khỏi choáng. Tần suất tái phát là 20%, tiên lượng tốt nếu chảy máu tự ngưng trong vòng 6 giờ đầu. Nguy cơ tái phát cao >50% nếu:
  • Chảy máu từ tiểu động mạch tạo thành tia.
  • Mạch máu thấy được ở nền ổ loét Chảy máu kéo dài >72 giờ.

Thủng: loét ăn sâu vào thành dạ dày hay tá tràng có thể gây thủng. Đây là biến chứng thứ nhì sau chảy máu (6%), đàn ông nhiều hơn phụ nữ. Loét mặt trước hoặc bờ cong nhỏ thì thủng vào khoang phúc mạc lớn, loét mặt sau thì thủng vào cơ quan kế cận hoặc hậu cung mạc nối.

Triệu chứng: thường khởi đầu bằng cơn đau dữ dội kiểu dao đâm đó là dấu viêm phúc mạc và nhiễm trùng nhiễm độc. Chụp phim bụng không sửa soạn hoặc siêu âm có liềm hơi dưới cơ hoành nhất là bên phải.

Loét xuyên thấu dính vào cơ quan kế cận: thường là tụy, mạc nối nhỏ, đường mật, gan, mạc nối lớn, mạc treo đại tràng, đại tràng ngang thường gặp là loét mặt sau hoặc loét bờ cong lớn. Các loét này thường đau dữ dội ít đáp ứng với điều trị, loét xuyên vào tụy thường đau ra sau lưng hoặc biểu hiện viêm tụy cấp, loét thủng vào đường mật chụp đường mật hoặc siêu âm có hơi trong đường mật hoặc baryte vào đường mật. Nếu rò dạ dày – đại tràng gây đi chảy phân sống và kém hấp thu, cần điều trị phẫu thuật.

Hẹp môn vị: thường gặp nhất khi ổ loét nằm gần môn vị. Gây ra do loét dạ dày hoặc tá tràng hoăc phản ứng co thắt môn vị trong loét dạ dày nằm gần môn vị, hẹp có thể do viêm phù nề môn vị.

Triệu chứng: Nặng bụng sau ăn. Mữa ra thức ăn củ > 24 giờ. Dấu óc ách dạ dày lúc đói và dấu Bouveret. Gầy và dấu mất nước.

  • Chẩn đoán hẹp môn vị: bằng
  • Thông dạ dày có dịch ứ >100ml.
  • Phim baryte dạ dày còn tồn đọng baryte >6giờ.
  • Phim nhấp nháy, chậm làm vơi dạ dày >6 giờ khi thức ăn có đánh dấu đồng vị phóng xạ Technium 99.
  • Xác định cơ năng hay thực thể bằng nghiệm pháp no muối kéo dài, sau 1/2 giờ và 4 giờ: nếu sau 1/2 giờ >400ml, và sau 4giờ >300ml là thực thể, nếu <200ml là có cơ năng, hoặc làm lại no muối sau 3 ngày chuyền dịch >100ml là thực thể.
  • Loét ung thư hóa: tỉ lệ loét ung thư hóa thấp 5-10%, và thời gian loét kéo dài >10 năm. Hiện nay người ta thấy rằng viêm mạn hang vị nhất là thể teo, thường đưa đến ung thư hóa nhiều hơn (30 %), còn loét tá tràng rất hiếm khi bị ung thư hóa.

Điều trị loét dạ dày tá tràng

Điều trị nội khoa

Chế độ ăn uống và nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi cả thể xác và nhất là tinh thần trong giai đoạn có đợt đau loét. Trong giai loét tiến triển cần ăn chế độ ăn lỏng và thức ăn kiềm tính như cháo sửa, tránh các thức ăn kích thích cay nóng như tiêu ớt. Cử bia rượu và nhất là thuốc lá vì làm chậm lành sẹo và dể gây loét tái phát. Thực tế hiện nay đã chứng minh thức ăn ít quan trọng chỉ cần ăn đều tránh nhịn đói gây tăng tiết acide.

Ăn phụ ban đêm hoặc trước lúc đi ngủ gây tiết acide ban đêm, nên cần chống chỉ định. Thuốc lá đã được chứng minh có hại gây tăng tiết acide, chậm lành sẹo và làm tăng tái phát.

Tâm lý liệu pháp: cần giải thích để bệnh nhân yên tâm và hợp tác trong điều trị. Nếu bệnh nhân quá lo lắng có thể cho thêm an thần: Diazepam, Tétrazépam, Chlodiazepate

Thuốc điều trị loét được chia làm các nhóm sau:

Thuốc kháng toan: Bicarbonate natri và calci không được dùng nữa do tác dụng dội và làm tăng calci máu gây sỏi thận. Người ta thường dùng kết hợp hydroxyde nhôm và magné để giảm tác dụng gây bón của nhôm và gây đi chảy của magné; tuy nhiên chúng cũng tạo các muối phosphate không hòa tan lâu ngày gây mất phospho (tính chất nầy được khai thác để điều trị tăng phospho máu trong suy thận). Các biệt dược thường là Maalox, Gelox, Alusi, Mylanta có thêm Siméticon là chất chống sùi bọt làm giảm hơi trong dạ dày, Trigel có phối hợp thêm chất làm giảm đau, Phosphalugel được trình bày dưới dạng gel nên có tính chất băng niêm mạc và giữ lại trong dạ dày lâu hơn; liều dùng 3-4g/ngày.

Thuốc kháng tiết: là các thuốc làm giảm tiết acid dịch vị qua nhiều cơ chế khác nhau do kháng thụ thể H2, kháng choline, kháng gastrine và kháng bơm proton của tế bào viền thành dạ dày.

Thuốc kháng choline: từ lâu là nền tảng của điều trị loét nó có tác dụng ức chế dây X, giảm tiết trực tiếp do tác động trực tiếp lên tế bào viền và gián tiếp bằng hảm sản xuất gastrin, sự tiết pepsine cũng bị giảm. Ức chế dây X còn làm giảm nhu động dạ dày: giảm co thắt thân và hang vị làm giảm đau, làm chậm làm vơi thức ăn đặc. Hiệu quả tốt của kháng choline trên cơn đau đã được xác định, nhưng tác dụng trên sự lành sẹo thì còn bàn cải, thuốc cổ điển trong nhóm này là atropin ngày nay ít được dùng vì có nhiều tác dụng phụ với liều điều trị 1mg/ng, thường gây khô miệng, sình bụng, tiểu khó. Chống chỉ định trong tăng nhản áp, u xơ tiền liệt tuyến. Hiện nay thuốc kháng choline có vòng 3, và pirenzépine chẹn thụ thể muscarine chọn lọc M1 trên tế bào viền, nên không có tác dụng trên co thắt cơ trơn và sự tiết nước bọt nên được chỉ định rộng rãi. Pirenzépine làm nhanh sự liền sẹo trong loét dạ dày và tá tràng. Trong hội chứng Zollinger Ellison phối hợp pirenzépine và Kháng H2 rất có hiệu qủa lên sự tiết acid hơn là dùng một mình kháng H2. Thuốc biệt dược là Gastrozépine, Leblon.

Thuốc kháng H2: ức chế sự tiết acid không chỉ sau kích thích histamine mà cả sau kích thích dây X, kích thích bằng gastrine và cả thử nghiệm bữa ăn.

Thế hệ 2: Ranitidine (Raniplex, Azantac, Zantac, Histac, Lydin, Aciloc…) Viên 150mg, 300mg, ống 50mg.

Cấu trúc hơi khác với cimétidine do có 2 nhánh bên ở nhân imidazole nên liều tác dụng thấp hơn và ít tác dụng phụ hơn, tác dụng lại kéo dài hơn nên chỉ dùng ngày 2 lần. Hiệu quả cao hơn cimétidine trong điều trị loét dạ dày tá tràng và nhất là trong hội chứng Zollinger Ellison. Tác dụng phụ rất ít trên androgen nên không gây liệt dương.

Liều dùng 300mg/ng uống 2 lần sáng tối hoặc một lần vào buổi tối như cimétidine.

Thế hệ 3: Famotidine (Pepcidine, Servipep, Pepcid, Quamatel, Pepdine). Viên 20mg, 40mg; ống 20mg. Tác dụng mạnh và kéo dài hơn ranitidine nên chỉ dùng một viên 40mg 1 lần vào buổi tối.

Các tác dụng phụ cũng tương tự như đối với Ranitidine.

Thế hệ thứ 4: Nizacid (Nizatidine), viên dạng nang 150mg, 300mg, liều 300mg uống 1 lần vào buổi tối. Tác dụng và hiệu quả tương tự như Famotidine.

Thuốc kháng bơm proton: là thụ thể cuối cùng của tế bào viền phụ trách sự tiết acide chlorhydride, do đó thuốc ức chế bơm proton có tác dụng chung và mạnh nhất.

  • Omeprazol (Mopral, Lomac, Omez, Losec). Viên nang 20mg, 40mg; ống 40mg. Liều thường dùng 20mg uống 1 lần vào buổi tối. Thuốc tác dụng rất tốt, hiệu quả ngay cả những trường hợp kháng H2. Hiệu quả lành sẹo đối loét tá tràng sau 2 tuần lễ là 65%, Đối với loét dạ dày là 80 – 85%. Thuốc tác dụng rất nhanh sau 24 giờ ức chế 80% lượng acide dịch vị.
  • Liệu trình đối với loét tá tràng là 4 tuần, loét dạ dày là 6 tuần.
  • Liều gấp đôi dành cho những người đáp ứng kém hoặc hội chứng Zollinger Ellison.
  • Tác dụng phụ ở vài trường hợp như bón, nôn mữa, nhức đầu, chóng mặt, đôi khi có nổi mề đay và ngứa da. Ở người già có thể có lú lẩn, hoặc ảo giác, các triệu chứng này giảm khi ngừng thuốc. Về máu, có thể có giảm bạch cầu, tiểu cầu, và hiếm hơn là thiếu máu huyết tán.
  • Chống chỉ định: phụ nữ có thai và cho con bú.

Esomeprazole (Nexium): đồng phân của Omeprazole có thời gian bán huỷ lâu hơn và có tác dụng ức chế tiết Acide và dịch vị tốt hơn. Viên 20mg, ngày x 2 viên.

  • Lanzorprazol (Lanzor, Ogast) viên 30mg, liều 1 viên uống vào buổi tối.
  • Tác dụng và chỉ định tương tự như Omeprazol.
  • Pentoprazole (Inipomp) viên 20mg, 40mg. Liều 40mg/ng.
  • Rabeprazole (Velox, Ramprazole) viên 20mg. Liều 40mg/ng.

Thuốc kháng Gastrin

Proglumide (Milide) là thuốc đối kháng gastrin. Nó làm giảm tiết acide khi tiêm gastrin, nhưng không làm giảm khi tiêm histamin, được chỉ định trong điều trị loét có tăng gastrin máu và nhất là trong u gastrinome.

Thuốc bảo vệ niêm mạc

Carbénoxolone (Caved’ s, Biogastrone): là dẫn xuất tổng hợp của cam thảo, kinh nghiệm dân gian xưa đã dùng để điều trị loét dạ dày. Nó làm tăng sản xuất nhầy và kéo dài tuổi thọ của tế bào niêm mạc, tác dụng kép này giống như PGE2, có thể do làm chậm thoái hóa prostaglandine. Ngoài ra carbénoxolone làm ức chế họat động của pepsine, nó cũng có tính chất kháng viêm.

Carbénoxolone làm nhanh sự lành sẹo loét dạ dày và nhất là nó chứa trong nang tan chậm cũng hiệu quả trong loét tá tràng. Tuy nhiên xử dụng của nó còn hạn chế do tác dụng phụ giống như aldosterone: giữ muối và phù, hạ Kali máu, cao huyết áp. Do đó khi dùng cần theo dõi trọng lượng, huyết áp và điện giải đồ.

Bismuth (Peptobismol, Trymo, Dénol): trước đây các muối bismuth natri hấp thu nhiều gây ra bệnh não do bismuth nên không còn được dùng trong điều trị. Hiện nay bismuth sous citrate (C.B.S) do không hấp thu và trong môi trường acide kết hợp với protéine của mô hoại tử từ ổ loét, tạo thành một phức hợp làm acide và pepsine không thấm qua được. Ở súc vật thí nghiệm, nó cũng bảo vệ niêm mạc chống lại sự ăn mòn của rượu và của aspirine.

Trình bày: viên 120mg, ngày 4 viên chia 2 lần sáng tối trước ăn.

Không nên dùng thuốc nước hoặc nhai vì thuốc làm đen răng và lợi.

Sucralfate (Ulcar, Kéal, venter, sulcrafar): là thuốc phối hợp giữa sulfate de sucrose và một muối nhôm. Cũng như sous nitrate de bismuth trong dung dịch acide nó gắn vào bề mặt ổ loét mang điện tích (-) kết hợp với điện tích (+) của thuốc, làm thành một lớp đệm, giúp chống lại sự phân tán ngược của ion H+. Hơn nữa nó còn hấp phụ pepsine và muối mật, làm bất hoạt chúng, cho nên được dùng để điều trị viêm dạ dày do trào ngược dich mật. Trong điều trị loét dạ dày tá tràng, nó làm giảm đau nhanh và làm lành sẹo tương đương như Cimétidine. Mặc dù hấp thụ ít nhưng cũng không nên dùng trong trường hợp suy thận nặng, vì nó chứa nhiều aluminium. Ngoài ra nó còn gây bón và do tính hấp phụ của nó làm ngăn chận hấp thu các thuốc như tetracycline, phénytoine.

Prostaglandine E2 (Cytotec, Minocytol) có nhiều cơ chế tác dụng: ức chế tiết acide, kích thích tiết nhầy, tăng tiết bicarbonate và làm tăng tưới máu cho lớp hạ niêm mạc dạ dày. Viên 200(; liều 400-600(. Tác dụng phu gây đi chảy * Thuốc diệt H.P: chủ yếu là các kháng sinh:

  • Nhóm (lactamine như Pénicilline, Ampicilline, Amoxicilline, các Céphalosporines.
  • Nhóm cycline: Tétracycline, Doxycycline.
  • Nhóm macrolides: Erythromycine, Roxithromycine, Azithromycine, Clarithromycine.
  • Nhóm Quinolone và nhóm imidazoles: Métronidazole, Tinidazole, Secnidazole…
  • Nhóm Bisthmus: Như trymo, denol, Peptobismol.

Áp dụng điều trị

Loét dạ dày

Trong trường hợp không tăng toan tăng tiết: thường chủ yếu chỉ dùng thuốc bảo vệ niêm mạc. Ví dụ: Ulcar gói 1g, ngày 3 gói, uống 30 phút -1 giờ trước ăn và 1 gam trước khi đi ngủ, có thể dùng thêm an thần như Tranxène 5mg tối uống một viên.

Nếu có nhiễm H.P thì áp dụng phát đồ điều trị hiện nay là phối hợp 3 thuốc diệt H.P như sau: Bismuth Tétracycline Métronidazole hoặc Bismuth Amoxicillin Metronidazol. Tuy nhiên đã có một số trường hợp đề kháng với Tétracycline và Metronidazole (40-50%), nên người ta thích phối hợp Bismuth Clarithromycin Tinidazole. Trong thời gian 6 – 8 tuần, tỉ lệ lành sẹo 80-85%.

Trong trường hợp có tăng toan tăng tiết áp dụng phát đồ điều trị tương tự như loét tá tràng nhưng thời gian 6 – 8 tuần.

Theo dõi điều trị: rất quan trọng trong điều trị loét dạ dày sau 3 – 4 tuần điều trị cần kiểm tra nội soi và sinh thiết, sau đó 3 tháng, rồi 6 tháng và hàng năm trong 5 năm đầu. Cần sinh thiết nhiều mảnh trên nhiều vùng và nhiều vòng khác nhau (8 -12 mẩu). Nếu có dị sản cần tích cực kiểm tra lại sau khi điều trị tích cực 3 tuần. Nếu có loạn sản hoặc có hình ảnh ung thư cần phẫu thuật.

Loét tá tràng: đa số đều có tăng toan và tăng tiết nên thường áp dụng phát đồ phối hợp: 1 kháng tiết mạnh 1 bảo vệ niêm mạc. Ví dụ: 1 kháng H2 mạnh như Ranitidin, Famotidine hoặc Oméprazole Sucralfate, cụ thể là Ranitidine 300mg hoặc Famotidine 40mg uống chia 2 lần sau ăn hoặc một lần khi đi ngủ Sucralfate 3g uống 3 lần trước ăn 30 ph và 1gr trước lúc đi ngủ.

Trong trường hợp có H.P, cho thêm thuốc diệt H.P như trong loét dạ dày, thời gian cho kháng sinh thường là 2 tuần. Kết quả một số phát đồ điều trị 3 thuốc như sau:

  • Bismuth (480mg/ng)+Tetracycline 1, 5g/ng (hay Amoxicillin)+Métronidazol (1, 5g/ng) x 2 tuần lành bệnh là 85%.
  • Ranitidin (300mg/ng)+Amoxicillin (1, 5g/ng)+Metronidazol (1, 5g/ng) x 2 tuần, sau đó tiếp tục dùng Ranitidine thêm 2 tuần, tỉ lệ lành bệnh là 89%.
  • Oméprazol (40mg/ng) Clarithromycine (0, 5g/ng) Tinidazol (1, 5g/ng) x 1 tuần, lành bệnh là 93, 2% hoặc Omeprazol (40mg/ng)+Clarithromycine (0, 5g/ng)+Amoxicilline (1, 5g/ng) x 1tuần, lành bệnh là 90%.
  • Trong một số vùng tỉ lệ đề kháng cao người ta đã áp dụng phát đồ 4 thuốc như sau: Bismuth+Tetracycline (hoặc Amoxicilline)+MetronidazolOmeprazole và có thể rút ngắn thời gian điều trị xuống 2 tuần.

Điều trị ngoại khoa

Phẫu thuật cắt 2/3 dạ dày: với loét dạ dày sau khi điều trị tích cực 6 tuần mà ổ loét không thay đổi hoặc trong trường hợp có loạn sản thì cần phẫu thuật cắt bỏ 2/3 theo kiểu Bilroth hoặc Péan để loại trừ ổ loét cũng như loại bỏ vùng tiết gastrine và acide.

Trong loét tá tràng, phẫu thuật rất hạn chế, chỉ dùng cho loét bất trị. Các chỉ định phẫu thuật chung: là loét biến chứng chảy máu cấp nặng không cầm được bằng phương tiện nội khoa, loét gây biến chứng hẹp môn vị khít và thực thể, loét thủng hoặc loét xuyên thâu vào tụy gây viêm tụy cấp tái phát nhiều lần.

Các biến chứng phẫu thuật bao gồm:

  • Hội chứng Dumping: thường xuất hiện nửa giờ sau khi ăn với đau thượng vị, buồn nôn, choáng váng, hồi hộp, vả mồ hôi, mệt lả do làm đầy tá tràng quá nhanh, do thức ăn ưu trương, cơ chế bệnh sinh phức tạp do nhiều nguyên nhân:
  • Giảm thể tích do cân bằng lại áp lực thẩm thấu ưu trương.
  • Phản xạ thực vật, giải phóng hormon vận mạch như serotonin, bradykinine, V.I.P., gây ra do căng dãn ruột. Cần phân biệt với hạ đường máu xảy ra chậm 1-2 giờ sau ăn do tiết quá nhiều insulin vì hấp thu một lượng lớn đường. Điều trị chủ yếu là ăn đặc nhiều bữa nhỏ, ít đường và sửa, dùng pectine để làm chậm vơi dạ dày.

Hội chứng quai tới: sau phẫu thuật do ứ đọng thúc ăn và nhất là mật trong quai tới làm viêm thường biểu hiện bằng đau và mữa ra mật.

Suy dưỡng: do nhiều nguyên nhân:

  • Do cắt bỏ dạ dày quá nhiều gây thiếu dịch vị và ăn quá ít vì dạ dày quá nhỏ.
  • Kém hấp thu thứ phát do thiếu mật, tụy.
  • Lên men vi trùng trong quai tới và hổng tràng. Ngoài ra còn thiếu sắt, B12, Folate, loãng xương nhuyễn xương, dễ nhiễm trùng nhất là lao.
  • Biến chứng xa là do trào ngược tá tràng dạ dày gây viêm miệng nối, rồi dị sản và loạn sản niêm mạc gây ra ung thư hóa thường 10-15 năm sau.
  • Phẫu thuật cắt bỏ dây X
  • Giúp loại bỏ pha đầu của sự tiết, làm giảm tiết ban đêm và làm giảm lượng tiết acid do gastrine.

Cắt thân dạ dày: cắt đoạn vào bụng quanh thực quản, cũng có thể cắt bằng đường ngực. Phẫu thuật này thường gây ra rối loạn vận động cần bổ sung bằng nối vị tràng hoặc chỉnh hình môn vị để giúp làm vơi dạ dày. Các hậu quả có thể có sau phẫu thuật này là:

  • Hội chứnh Dumping và trào ngược mật tụy.
  • Đi chảy và rối loạn mật tụy do mất điều chỉnh thần kinh.
  • Bezoard do rối loạn làm vơi dạ dày và giảm tiết dịch vị.
  • Cắt dây X chọn lọc: chỉ cắt các sợi đi vào dạ dày thường kèm chỉnh hình môn vị.
  • Cắt dây X siêu chọn lọc: chỉ cắt nhánh dây X đi vào đáy vị và giữ lại nhánh Latạrjet điều hành hang vị, nên bảo toàn được chức năng hang môn vị nên ít gây ra biến chứng.

Một số chỉ định đặc biệt

  • Trong loét môn vị tăng toan: cắt dây X ổ loét xét nghiệm mô học.
  • Trong loét kép: cắt dây X cắt hang vị.
  • Loét tái phát sau phẫu thuật: tùy theo cách phẫu thuật trước.
  • Sau cắt dạ dày loét tái phát ở tá tràng hoặc hổng tràng.
  • Sau cắt dây X, thường loét tái phát chỗ cũ.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Căng cơ thắt lưng: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị

Căng cơ thắt lưng (còn gọi là căng cơ lưng dưới) là tình trạng các cơ ở vùng thắt lưng bị căng hoặc bị tổn thương. Hãy tìm hiểu bệnh căng cơ thắt lưng trong bài sau đây!

Căng cơ thắt lưng: Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị

Căng cơ thắt lưng là bệnh gì?

Bác sĩ trị liệu tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội và Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur chia sẻ: Căng cơ thắt lưng, hay còn gọi là căng cơ lưng dưới, là một tình trạng thường gặp gây ra đau đớn và khó chịu ở vùng lưng dưới. Đây là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến các vấn đề về đau lưng, ảnh hưởng đến hàng triệu người trên toàn thế giới. Bài viết này sẽ giải thích chi tiết về căng cơ thắt lưng, bao gồm nguyên nhân, triệu chứng, cách chẩn đoán và các phương pháp điều trị hiệu quả.

Nguyên nhân của căng cơ thắt lưng

Căng cơ thắt lưng thường xảy ra khi các cơ hoặc dây chằng ở lưng dưới bị tổn thương. Nguyên nhân gây căng cơ có thể rất đa dạng, bao gồm:

  1. Chấn thương hoặc vận động sai cách: Các hoạt động như nâng vác vật nặng, xoay người đột ngột hoặc thực hiện các động tác thể thao không đúng kỹ thuật có thể dẫn đến căng cơ. Ví dụ, người chơi golf hoặc bóng rổ thường gặp phải vấn đề này do các động tác vặn mình mạnh mẽ.
  2. Công việc yêu cầu ngồi hoặc đứng lâu: Những người làm việc văn phòng, tài xế hoặc công nhân đứng lâu cũng có nguy cơ cao bị căng cơ thắt lưng. Tư thế không đúng trong thời gian dài có thể gây áp lực lên cột sống và cơ lưng dưới, dẫn đến căng cơ.
  3. Tư thế ngủ không đúng: Ngủ ở tư thế không phù hợp hoặc sử dụng gối không hỗ trợ tốt có thể gây căng cơ thắt lưng. Ví dụ, ngủ sấp hoặc không có gối hỗ trợ đúng cách cho vùng cổ và lưng có thể gây căng cơ.
  4. Thiếu luyện tập thể dục: Cơ lưng yếu do ít vận động cũng dễ bị căng khi phải chịu áp lực. Những người ít hoạt động thể chất thường có cơ lưng và cơ bụng yếu, không thể hỗ trợ cột sống một cách hiệu quả.

Triệu chứng của căng cơ thắt lưng

Căng cơ thắt lưng có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tổn thương. Các triệu chứng phổ biến bao gồm:

  • Đau nhói hoặc đau âm ỉ ở vùng lưng dưới: Cơn đau có thể xuất hiện đột ngột sau khi nâng vật nặng hoặc thực hiện một động tác sai cách.
  • Đau tăng lên khi cử động: Đặc biệt là khi uốn hoặc xoay người. Điều này khiến người bệnh gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày.
  • Cảm giác căng cứng hoặc yếu ở vùng lưng dưới: Người bệnh có thể cảm thấy lưng dưới bị căng cứng, đặc biệt là vào buổi sáng sau khi thức dậy.
  • Có thể có tình trạng sưng hoặc co cơ: Trong một số trường hợp, vùng lưng dưới có thể bị sưng hoặc cơ lưng có thể co lại do căng thẳng.

Chẩn đoán căng cơ thắt lưng

Việc chẩn đoán căng cơ thắt lưng thường bắt đầu bằng việc thăm khám lâm sàng và hỏi bệnh sử. Bác sĩ sẽ kiểm tra vùng lưng dưới để xác định vị trí đau và mức độ nghiêm trọng của căng cơ. Đôi khi, các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như X-quang, MRI hoặc CT scan có thể được sử dụng để loại trừ các nguyên nhân khác của đau lưng, chẳng hạn như thoát vị đĩa đệm hoặc tổn thương cột sống.

Điều trị căng cơ thắt lưng

Dược sĩ Cao đẳng Dược Hà Nội  – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur chia sẻ: Việc điều trị căng cơ thắt lưng thường kết hợp giữa các phương pháp điều trị không dùng thuốc và dùng thuốc. Dưới đây là một số phương pháp điều trị phổ biến:

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng 

Điều trị không dùng thuốc

  1. Nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong điều trị căng cơ thắt lưng. Tránh các hoạt động gây căng cơ thêm, nhưng cũng không nên nằm bất động quá lâu. Di chuyển nhẹ nhàng và duy trì một số hoạt động hàng ngày có thể giúp tăng cường lưu thông máu và giảm căng cơ.
  2. Chườm đá hoặc nhiệt: Chườm đá trong 48 giờ đầu để giảm sưng và viêm, sau đó có thể dùng nhiệt để làm giãn cơ và giảm đau. Việc chườm đá nên thực hiện trong 15-20 phút mỗi lần, nhiều lần trong ngày. Sau giai đoạn chườm đá, chườm nhiệt cũng có thể được thực hiện với thời gian và tần suất tương tự.
  3. Vật lý trị liệu: Tập các bài tập nhẹ nhàng để tăng cường sức mạnh cơ lưng và cải thiện linh hoạt. Vật lý trị liệu có thể bao gồm các bài tập kéo giãn, tăng cường cơ bắp và cải thiện tư thế. Các nhà vật lý trị liệu có thể hướng dẫn các bài tập cụ thể và cách thực hiện chúng một cách an toàn và hiệu quả.
  4. Massage: Giúp giảm căng cơ và tăng tuần hoàn máu. Massage có thể giúp giảm đau và làm dịu cơ bắp căng thẳng. Tuy nhiên, massage nên được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm để tránh làm tổn thương thêm vùng lưng dưới.

Điều trị bằng thuốc

  1. Thuốc giảm đau không kê đơn (OTC):
  • Acetaminophen (Paracetamol): Giúp giảm đau nhưng không có tác dụng chống viêm.
  • Thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) như ibuprofen hoặc naproxen: Giúp giảm đau và viêm.
  1. Thuốc giảm đau kê đơn: Trong các trường hợp đau nặng, bác sĩ có thể kê đơn các loại thuốc giảm đau mạnh hơn như opioid. Tuy nhiên, cần sử dụng dưới sự giám sát của bác sĩ do nguy cơ gây nghiện và tác dụng phụ nghiêm trọng.
  2. Thuốc giãn cơ: Được sử dụng để giảm co thắt cơ và giảm đau. Các loại thuốc giãn cơ thường được kê đơn bao gồm cyclobenzaprine và baclofen.
  3. Thuốc chống viêm kê đơn: Celecoxib (Celebrex) là một loại NSAID được kê đơn với tác dụng giảm viêm và đau.
  4. Thuốc chống trầm cảm: Amitriptyline và duloxetine có thể được sử dụng để điều trị đau mãn tính, bao gồm đau lưng.
  5. Thuốc chống co giật: Gabapentin và pregabalin thường được sử dụng để điều trị đau thần kinh, có thể có ích trong trường hợp đau lưng liên quan đến thoát vị đĩa đệm hoặc chèn ép dây thần kinh.

Phòng ngừa căng cơ thắt lưng

Phòng ngừa căng cơ thắt lưng đòi hỏi một lối sống lành mạnh và các biện pháp cụ thể để giảm nguy cơ chấn thương. Dưới đây là một số gợi ý:

  1. Duy trì tư thế đúng: Luôn duy trì tư thế đúng khi ngồi, đứng, và nằm. Sử dụng ghế có lưng tựa tốt, điều chỉnh độ cao bàn làm việc phù hợp và chọn nệm hỗ trợ tốt cho lưng.
  2. Tập thể dục đều đặn: Thực hiện các bài tập thể dục giúp tăng cường cơ lưng và cơ bụng. Các bài tập như yoga, Pilates, và bơi lội có thể giúp duy trì sự linh hoạt và sức mạnh của cơ bắp.
  3. Tránh nâng vật nặng sai cách: Khi nâng vật nặng, hãy sử dụng cơ chân thay vì cơ lưng để giảm áp lực lên lưng dưới. Uốn cong đầu gối và giữ vật gần cơ thể khi nâng.
  4. Duy trì cân nặng hợp lý: Thừa cân có thể gây áp lực lên cột sống và tăng nguy cơ căng cơ thắt lưng. Duy trì cân nặng hợp lý thông qua chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục đều đặn.

Căng cơ thắt lưng là một tình trạng phổ biến trong bệnh lý cơ xương khớp có thể gây ra đau và khó chịu ở vùng lưng dưới. Hiểu rõ nguyên nhân, triệu chứng, và các phương pháp điều trị có thể giúp giảm đau và ngăn ngừa tình trạng này tái phát. Việc duy trì một lối sống lành mạnh, tư thế đúng và tập thể dục đều đặn là những biện pháp quan trọng để bảo vệ sức khỏe lưng và cột sống. Nếu triệu chứng căng cơ thắt lưng không cải thiện sau một thời gian hoặc trở nên nghiêm trọng hơn, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn và điều trị kịp thời.

Thông tin chia sẻ chỉ mang tính chất tham khảo, người bệnh không áp dụng khi chưa được sự đồng ý của bác sĩ hoặc chuyên gia y tế!

Nguồn:  benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Bệnh Ebola là gì ?

Bản thân virus Ebola được phát hiện lần đầu vào năm 1976, nhưng đây chỉ là một thành viên trong họ virus gây nên hội chứng tương tự nhau gọi là sốt xuất huyết virus.

Căn bệnh gây nên bởi virus này rất đột ngột và đáng sợ. Khởi đầu là triệu chứng như bệnh cúm – sốt, đau họng, rất mệt mỏi và đau cơ. Trong một vài ngày phát triển thành buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy.

Trong khi biểu hiện ra những triệu chứng bên ngoài như trên, thì virus lại tấn công nội tạng bên trong, đặc biệt là gan và thận. Khi các nội tạng bị tổn thương, bệnh nhân bắt đầu xuất huyết, cuối cùng chết vì mất máu và nước. Tới nay đã có 2.200 trường hợp được báo cáo, khoảng 1.500 người nhiễm đã tử vong.

Trong khi virus Ebola chủ yếu được phát hiện tại Trung Phi (đợt dịch hiện nay nằm ở phía Tây đợt dịch trước), những con virus gây nên hội chứng sốt xuất huyết virus khác lại phân bố rộng rãi hơn – sốt Lassa (Tây Phi), hantaviru (Đông Á), Junin (Argentina), Crimean – Congo (chủ yếu ở Trung Á và Đông u). Virus Dengue, thường được phát hiện chủ yếu ở vùng nhiệt đới (đặc biệt là Châu Á), có thể nhưng hiếm gặp, gây ra hội chứng tương tự.

Có năm chủng Ebola và chúng phân biệt nhau ở cơ chế lây bệnh và làm tử vong. Những vụ dịch bệnh đáng chú ý nhất có liên quan đến chủng Sudan và Zaire; con thứ hai có liên quan đến vụ dịch bệnh hiện nay.

Ebola được cho là bắt nguồn từ dơi ăn quả và các trường hợp đầu tiên tại người có nguyên nhân từ tiếp xúc với động vật bị lây nhiễm, bao gồm tinh tinh, gozila và khỉ. Nhưng vụ dịch hiện nay xảy ra do lây từ người sang người.

Bệnh Ebola lây lan như thế nào?

Một tin tốt, sự lây lan của virus nếu có xảy ra thì có thể kiểm soát được, và không dễ dàng lây nhiễm như bạn nghĩ khi xem các bộ phim về dịch do virus.

Không giống như SARS (Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng), vốn lây lan nhanh chóng do tiếp xuc với các giọt chất lỏng nhỏ và tác nhân gây bệnh từ môi trường, và khó kiểm soát thậm chí dù ở các nước phát triển như Canada và Singapore. Bệnh Ebola cần có yêu cầu là tiếp xúc với chất dịch của người bị nhiễm. Điều này đồng nghĩa với Ebola chỉ thường lây lan khi có tiếp xúc gần đối với người bị nhiễm – chủ yếu là thành viên trong gia đình, nhân viên y tế và những người liên quan đến mai táng bệnh nhân.

Tổ chức Y tế Thế giới chỉ khuyến cáo “biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn” để ngăn ngừa mọi người tiếp xúc gần với chất tiết người bị nhiễm. Biện pháp này bao gồm cả đeo găng tay, mặc áo phòng hộ, đeo mặt nạ và đồ bảo vệ mắt, đảm bảo khử trùng tay và thiết lập hệ thống để quản lý công tác đánh giá, chăm sóc bệnh nhân và dọn dẹp, xử lý chất thải.

Người bị sốt xuất huyết virus chảy máu và nôn, và những chất dịch này có khả năng lây nhiễm. Công tác huấn luyện cho những nhân viên y tế, đặc biệt nhân viên ở các vùng chưa từng biết đến căn bệnh Ebola trước đó, dường như khó có thể giúp họ chấp nhận và chăm sóc cho bệnh nhân bị nhiễm, hay giúp họ tuân thủ được những yêu cầu kiểm soát nghiêm ngặt giúp ngăn chặn lây lan.

Kiềm chế dịch bệnh Ebola bùng phát

Và đây vẫn còn là bài toán hóc búa hơn cả; Dịch Ebola có xu hướng bùng phát ở những nơi có cơ sơ hạ tầng y tế bị thiếu thốn trầm trọng.

Sự thiếu thốn trên làm ảnh hưởng đến mọi nỗ lực nhằm kiểm sát dịch bệnh. Guinea- nơi đang xảy ra dịch bệnh, cũng được báo cáo là đang vật lộn với bệnh sởi, tả và viêm màng não.

Nhưng không hẳn là thiếu thốn mọi thứ. Các tổ chức cứu trợ, tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới, đang hỗ trợ các đội ngũ và cơ sở vật chất qua đường hàng không để giúp kiểm soát vụ dịch Ebola. Những tổ chức này đã có kinh nghiệm tại khu vực này thông qua việc tham gia vào các tình trạng khẩn cấp trước đó.

Tổ chức nhấn mạnh rằng, dịch bệnh này đặt ra những khó khăn đặc biệt, chẳng hạn như diễn ra ở nhiều nơi trong khu vực, đồng thời cũng cách xa nhau, do đó gây trở ngại cho những nỗ lực để kiểm soát dịch bệnh. Và vì thời kỳ ủ bệnh của virus có thể kéo dài đến ba tuần, chúng ta sẽ không biết những biện pháp kiểm soát đang được áp dụng trong thời gian ngắn sẽ đem lại kết quả ra sao.

Hãy cùng hy vọng rằng các nỗ lực của quốc tế và địa phương hiện nay để giúp kiểm soát sự lây lan của bệnh Ebola sẽ chặn đứng con số người bị nhiễm bệnh đang gia tăng.

Bệnh do vi rút Ebola

Bệnh do vi rút Ebola (EVD) hay sốt xuất huyết Ebola (EHF) là bệnh do vi rút Ebola gây ra ở người. Các triệu chứng thường khởi phát sau khi bị nhiễm vi rút 2 ngày đến 3 tuần, với sốt, đau họng, đau bắp cơ, và nhức đầu. Sau đó thường xuất hiện các triệu chứng buồn nôn, nôn ói, và tiêu chảy, kèm theo chức năng gan và thận cũng bị suy giảm. Ở giai đoạn này, một số người bắt đầu có các triệu chứng xuất huyết.

Con người có thể nhiễm vi rút Ebola do tiếp xúc với máu hoặc chất dịch cơ thể của động vật bị nhiễm (thường là khỉ hoặc loài dơi ăn trái). Sự lây truyền qua không khí trong môi trường tự nhiên vẫn chưa được chứng minh. Loài dơi ăn trái được cho là mang truyền vi rút Ebola mà không hề bị bệnh. Một khi con người bị nhiễm bệnh, thì bệnh cũng có thể lây truyền từ người này sang người khác. Nam giới sống sót sau khi nhiễm bệnh Ebola có thể truyền bệnh qua tinh dịch trong gần 2 tháng. Để chẩn đoán bệnh, trước tiên cần phân biệt loại trừ các bệnh khác có triệu chứng tương tự chẳng hạn sốt rét, dịch tả và các bệnh sốt xuất huyết do vi rút khác. Để xác định bệnh, mẫu máu được xét nghiệm để tìm kháng thể vi rút, ARN của vi rút, hoặc chính con vi rút Ebola.

Phòng bệnh bao gồm làm giảm sự lây lan bệnh từ heo và khỉ bị nhiễm sang con người. Việc này được thực hiện bằng cách kiểm tra bệnh các loài động vật này và bằng cách giết chết và tiêu hủy đúng cách xác động vật chết nếu phát hiện chúng bị bệnh. Thịt được nấu chín kỹ và mặc quần áo bảo hộ khi xử lý thịt cũng giúp phòng bệnh, cũng như mặc quần áo bảo hộ và rửa tay khi ở gần người mắc bệnh để phòng bệnh. Các mẫu mô và chất dịch cơ thể của người mắc bệnh cần được xử lý đặc biệt thận trọng.

Không có phác đồ điều trị đặc hiệu; các nỗ lực nhằm giúp người bệnh bao gồm hoặc là cho điều trị mất nước bằng đường uống (nước uống hơi ngọt hơi mặn) hoặc là cho dịch truyền bằng đường tĩnh mạch. Bệnh có tỉ lệ tử vong cao: thường từ 50% đến 90% số người nhiễm vi rút Ebola bị tử vong. [3] EVD được phát hiện đầu tiên ở Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo. Bệnh thường bộc phát thành dịch ở những vùng nhiệt đới của châu Phi cận Sahara. Từ 1976 (khi lần đầu được phát hiện) cho đến 2013, chưa tới 1000 người bị nhiễm bệnh mỗi năm. Dịch bệnh lớn nhất cho đến nay là dịch Ebola Tây Phi 2014 đang hoành hành ở Guinea, Sierra Leone, Liberia và có thể Nigeria. Tính tới ngày 3 tháng 10 năm 2014, 7.497 trường hợp bị nghi ngờ mắc bệnh trong số đó đã có 3.439 người đã chết. Hiện người ta đang nỗ lực chế tạo vắc xin; tuy nhiên, vẫn chưa có vắc xin nào.

Chu kỳ cuộc sống của Ebola virus

Bệnh virus Ebola bị gây ra bởi bốn trong nhóm năm loài virus Ebola, họ Filoviridae, bộ Mononegavirales. Những loại virus đó là Bundibugyo (BDBV), Ebola (EBOV), Sudan (SUDV), và virus rừng Taï (TAFV, tên trước đây và tên thường gọi cũng là virus Ebola Bờ Biển Ngà (CIEBOV)). Loại thứ năm, Reston virus (RESTV), được cho là không gây ra bệnh trên con người. Khi bệnh bộc phát ra, những người có nguy cơ mắc bệnh nhất là những người chăm sóc bệnh nhân, hoặc có tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân.

Các triệu chứng của bệnh Ebola

Bệnh này thường bắt đầu với dấu hiệu và các triệu chứng giống bệnh cúm như sốt, đau đầu, mệt mỏi, đau cơ, khớp và cơ bụng. Nôn mửa, tiêu chảy và chán ăn cũng là các triệu chứng phổ biến.

EVD / EHF về mặt lâm sàng không thể phân biệt được với bệnh virus Marburg (MVD), và nó cũng có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với nhiều bệnh phổ biến khác ở vùng xích đạo châu Phi, chẳng hạn như các virus sốt xuất huyết, sốt rét falciparum, sốt thương hàn, bệnh vi khuẩn Shigella, bệnh rickettsial, bệnh tả, nhiễm trùng huyết hoặc EHEC ruột Gram âm. Các nghiên cứu chi tiết nhất về tần suất, bắt đầu thời gian, và các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng EVD đã được thực hiện trong sự bùng phát bệnh năm 1995 tại Kikwit, Zaire (EBOV) và đợt bùng phát bệnh giai đoạn 2007-2008 ở Bundibugyo, Uganda (BDBV). thời gian ủ bệnh trung bình của dịch EVD do EBOV là 12,7 ngày (độ lệch chuẩn = 4.3 ngày), nhưng có thể dài đến 25 ngày. giai đoạn đầu giống như cúm đặc trưng bởi sốt, khó chịu nói chung với ớn lạnh, đau khớp,đau cơ và đau ngực. Buồn nôn kèm theo đau bụng, chán ăn, tiêu chảy và nôn mửa,viêm họng với đau họng, ho, khó thở, và nấc cụt.

Hệ thống thần kinh trung ương bị ảnh hưởng được đánh giá bởi sự phát triển của đau đầu nghiêm trọng, tình trạng kích động, lú lẫn, mệt mỏi, trầm cảm, co giật, và đôi khi hôn mê. Hệ thống tuần hoàn cũng thường xuyên tham gia, với các dấu hiệu nổi bật nhất là phù nề và viêm kết mạc. Các triệu chứng xuất huyết là không thường xuyên (ít hơn 10% trường hợp cho hầu hết các type huyết thanh), (lý do tại sao bệnh sốt xuất huyết Ebola (EHF) là một cái tên nhầm lẫn) và bao gồm nôn ra máu, ho ra máu, phân đen, và chảy máu từ màng nhầy (gastroinestinal đường, mũi, âm đạo và nướu).

Biểu hiện trên da có thể bao gồm: phát ban đốm diện rộng, đốm xuất huyết, xuất huyết ban, các vết bầm máu, và máu tụ (đặc biệt là xung quanh các trang điểm kim tiêm). Tiến triển các triệu chứng xuất huyết là dấu hiệu của một tiên lượng tiêu cực. Tuy nhiên, trái với niềm tin phổ biến, xuất huyết không dẫn đến hypovolemia và không phải là nguyên nhân cái chết (mất máu tổng số thấp, ngoại trừ trong quá trình lao động). Thay vào đó, cái chết xảy ra do hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (MODS) do tái phân phối chất lỏng, hạ huyết áp, phổ biến, đông máu nội mạch, và hoại tử mô trung tâm. Hiện nay, bệnh Sốt xuất huyết do virus Ebola chưa có vaccine dự phòng.

Phòng tránh bệnh Ebola

Virus Ebola lây sang người thông qua tiếp xúc với máu, chất tiết, bộ phận cơ thể hoặc dịch thể khác của người, động vật bị nhiễm bệnh. Để phòng bệnh, cần thực hiện vệ sinh cá nhân (rửa tay bằng xà phòng, chất sát khuẩn,…), tránh tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh; không cầm, nắm các vật có thể đã tiếp xúc với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh trước đó.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Bệnh lý phình đĩa đệm nguy hiểm như thế nào?

Bệnh lý phình đĩa đệm (hoặc thoát vị đĩa đệm) là tình trạng khi đĩa đệm nằm giữa các đốt sống bị tổn thương và phần nhân nhầy bên trong đĩa đệm bị đẩy ra ngoài.

Bệnh lý phình đĩa đệm nguy hiểm như thế nào?

Triệu chứng chính của phình đĩa đệm

Bệnh lý cơ xương khớp phình đĩa đệm có thể gây ra áp lực lên các dây thần kinh gần đó, dẫn đến các triệu chứng khác nhau. Các triệu chứng chính của phình đĩa đệm bao gồm:

  1. Đau lưng: Đây là triệu chứng phổ biến nhất và có thể xảy ra ở vùng lưng dưới hoặc lưng giữa.
  2. Đau lan xuống chân: Nếu phình đĩa đệm xảy ra ở vùng lưng dưới (cột sống thắt lưng), đau có thể lan xuống chân, gót chân hoặc đùi, thường được gọi là đau thần kinh tọa.
  3. Tê và ngứa ran: Cảm giác tê và ngứa ran có thể xuất hiện ở chân, tay, hoặc các vùng khác tùy thuộc vào vị trí của phình đĩa đệm.
  4. Yếu cơ: Có thể cảm thấy yếu ở chân hoặc tay nếu đĩa đệm bị phình chèn ép dây thần kinh liên quan đến cơ bắp đó.
  5. Khó khăn trong việc di chuyển: Cảm giác đau và yếu có thể khiến việc đi lại, cúi xuống, hoặc đứng lâu trở nên khó khăn.
  6. Thay đổi cảm giác: Có thể cảm thấy cảm giác bất thường như giảm cảm giác hoặc cảm giác như bị kim châm.
  7. Đau cổ: Nếu phình đĩa đệm xảy ra ở vùng cổ (cột sống cổ), bạn có thể cảm thấy đau cổ, đau lan xuống vai, cánh tay, hoặc thậm chí đau đầu.

Dược sĩ Cao đẳng Dược TP.HCM cho rằng: Nếu bạn gặp phải các triệu chứng này, đặc biệt là nếu chúng nghiêm trọng hoặc không cải thiện sau khi nghỉ ngơi hoặc điều trị cơ bản. Việc điều trị có thể bao gồm thuốc giảm đau, vật lý trị liệu, hoặc trong trường hợp nghiêm trọng hơn, phẫu thuật để giảm áp lực lên dây thần kinh.

  1. Lão hóa: Khi tuổi tác tăng lên, đĩa đệm mất dần tính đàn hồi và độ bền. Đĩa đệm có thể bị khô và giảm khả năng hấp thụ sốc, dẫn đến nguy cơ cao hơn của việc bị phình hoặc rách.
  2. Chấn thương hoặc căng thẳng: Chấn thương nặng hoặc căng thẳng kéo dài trên cột sống có thể làm tổn thương đĩa đệm. Các hoạt động nặng nhọc, cúi xuống hoặc xoay người sai cách đều có thể gây ra tình trạng này.
  3. Tư thế và thói quen xấu: Ngồi hoặc đứng lâu trong tư thế không đúng, đặc biệt là khi cúi người hoặc nâng vật nặng không đúng cách, có thể gây áp lực lên cột sống và dẫn đến phình đĩa đệm.
  4. Thừa cân: Trọng lượng cơ thể dư thừa có thể tạo áp lực thêm lên cột sống, làm tăng nguy cơ bị phình đĩa đệm.
  5. Chế độ ăn uống không lành mạnh: Chế độ ăn thiếu dinh dưỡng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cột sống và đĩa đệm. Thiếu vitamin và khoáng chất cần thiết có thể làm suy giảm cấu trúc và chức năng của đĩa đệm.
  6. Yếu cơ và thiếu hoạt động thể chất: Cơ lưng yếu hoặc không được rèn luyện đủ có thể dẫn đến sự hỗ trợ kém cho cột sống, gây ra áp lực không đồng đều lên đĩa đệm và dễ dẫn đến phình đĩa đệm.
  7. Nâng vật nặng sai cách: Việc nâng hoặc kéo vật nặng mà không sử dụng kỹ thuật đúng có thể tạo áp lực không đều lên đĩa đệm, dẫn đến tình trạng phình.

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng 

Điều trị phình đĩa đệm

Bác sỹ tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội và TP.HCM cho biết: Điều trị phình đĩa đệm có thể bao gồm nhiều phương pháp tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng và các triệu chứng mà bạn gặp phải.

  1. Điều trị bảo tồn
  • Thuốc giảm đau: Các thuốc như acetaminophen (Tylenol) hoặc thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) như ibuprofen (Advil) có thể giúp giảm đau và viêm.
  • Thuốc giãn cơ: Được sử dụng khi có co thắt cơ kèm theo đau.
  • Thuốc giảm đau thần kinh: Các thuốc như gabapentin hoặc pregabalin có thể giúp kiểm soát cơn đau thần kinh.
  • Vật lý trị liệu: Một chương trình vật lý trị liệu có thể bao gồm các bài tập nhằm cải thiện sức mạnh cơ bắp, linh hoạt và tư thế. Vật lý trị liệu cũng có thể giúp giảm áp lực lên cột sống và cải thiện khả năng vận động.
  • Châm cứu: Một số nghiên cứu cho thấy châm cứu có thể giúp giảm đau và cải thiện chức năng.
  • Tập thể dục và điều chỉnh lối sống: Các bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, bơi lội hoặc yoga có thể giúp giảm đau và cải thiện sức mạnh cơ bắp. Điều chỉnh lối sống bao gồm duy trì trọng lượng cơ thể hợp lý và tránh các hoạt động làm tăng áp lực lên cột sống.
  • Thay đổi thói quen sinh hoạt: Thay đổi tư thế ngồi và đứng, sử dụng thiết bị hỗ trợ lưng khi cần thiết, và tránh nâng vật nặng hoặc các động tác xoay người mạnh mẽ.
  1. Điều trị can thiệp
  • Tiêm thuốc vào cột sống: Tiêm corticosteroid vào không gian quanh đĩa đệm có thể giúp giảm viêm và đau. Đây là một biện pháp tạm thời và thường được sử dụng khi các phương pháp bảo tồn không hiệu quả.
  • Tiêm thuốc giảm đau thần kinh: Được sử dụng để giảm cơn đau do dây thần kinh bị chèn ép.
  1. Phòng ngừa
  • Duy trì cân nặng hợp lý: Giảm thiểu áp lực lên cột sống bằng cách giữ trọng lượng cơ thể trong khoảng bình thường.
  • Tập thể dục thường xuyên: Tăng cường cơ lưng và cải thiện sự linh hoạt để hỗ trợ cột sống.

Chia sẻ và biên tập bởi Cử nhân Y khoa Trần Hương Ly – Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur !

Cập nhật tại https://benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Con Đường Lây Lan Của Bệnh Ebola

Việc chưa khống chế được bệnh dịch Ebola khiến không ít ngưởi hoang mang. Bệnh Ebola lây qua đường nào để phòng tránh được rất nhiều người quan tâm. Bài viết sau sẽ cho bạn hiểu bệnh Ebola lây truyền qua đường nào.

Trong thiên nhiên, virus Ebola tồn tại trong một loài dơi chuyên ăn quả ở châu Phi. Tuy nhiên, chỉ có người và động vật linh trưởng (khỉ, khỉ đột, đười ươi, tinh tinh…) mới là vật chủ để virus này gây bệnh. Virus này sẽ hiện diện trong máu và các dịch tiết (phân, nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, tinh dịch…) của loài động vật linh trưởng này.

Con người chúng ta bị lây khi tiếp xúc với những con vật này bị chết mà không có biện pháp bảo hộ thích hợp. Ngoài ra, người ta cũng ghi nhận một số người bị lây nhiễm do tiếp xúc hoặc ăn uống thịt các thú rừng bị bệnh hoặc chết như: nhím, linh dương, mặc dù những loài thú này không phải là vật chủ của virus Ebola.

– Khi một người bị nhiễm virus Ebola, lúc đó virus có thể lây truyền trực tiếp từ người sang người vì máu và các dịch tiết (phân, nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, tinh dịch, sữa mẹ…) của người bị nhiễm bệnh cũng chứa virus Ebola.

Người ta ghi nhận sau thời kỳ ủ bệnh từ 2-21 ngày tùy người thì bệnh nhân bắt đầu có triệu chứng, lúc đó bệnh nhân có thể lây lan virus từ người sang người. Tuy nhiên, việc lây truyền từ người sang người xảy ra qua những con đường sau:

+ Da hoặc niêm mạc miệng, má, mũi, đường tiêu hóa, đường sinh dục bị trầy xước tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc dịch tiết của bệnh nhân.

+ Da hoặc niêm mạc miệng, má, mũi, đường tiêu hóa, đường sinh dục bị trầy xước tiếp xúc trực tiếp với môi trường xung quanh đã bị nhiễm bẩn bởi dịch tiết của bệnh nhân như quần áo, chăn màn, drap trải giường, kim tiêm…

+ Nghi lễ chôn cất hoặc tẩm liệm người chết vì bệnh Ebola mà có tiếp xúc trực tiếp với thi thể cũng có thể làm lây bệnh từ người sang người.

Cách phòng chống việc lây nhiễm Ebola: vì bệnh chưa có vắc xin nên chúng ta có thể áp dụng những cách phòng chống sau:

– Đối với những người đến hoặc quá cảnh từ vùng có dịch (các nước Tây Phi) trong vòng 3 tuần lễ cần được lưu ý đến khả năng mắc bệnh Ebola khi có những triệu chứng ban đầu: sốt, ho thông thường và nên được đưa đến cơ sở y tế để được chẩn đoán, chăm sóc và cách ly thích hợp để tránh lây lan.

– Đối với những trường hợp có người thân bị sốt nghi ngờ do Ebola, chúng ta nên rửa tay bằng xà phòng ngay sau khi chạm vào bệnh nhân hoặc đồ đạc xung quanh họ.

– Không nên ăn thịt rừng.

– Nên nấu chín thật kỹ thức ăn có nguồn gốc từ động vật.

– Tình dục an toàn: sử dụng bao cao su…

– Những bệnh nhân đã chết vì Ebola nên được xử lý cẩn thận và sử dụng găng tay, khẩu trang, nón bảo hộ và nên chôn cất ngay lập tức, không để kéo dài.

Tình hình nhiễm Ebola tại Việt Nam

Trong tình hình thực tế ở Việt Nam, hiện tại chưa xuất hiện Ebola nhưng chúng ta cần áp dụng đồng bộ nhiều phương pháp:

– Kiểm dịch từ khâu nhập cảnh, nhất là những người đến hoặc quá cảnh từ những vùng có dịch.

– Thận trọng khi tiếp xúc với những người thân, bạn bè trong 3 tuần gần đây từng đến vùng có dịch (Tây Phi).

– Ăn chín, uống sôi, rửa sạch

– Rửa tay và vệ sinh môi trường với xà phòng

– Không quan hệ tình dục bừa bãi mà không có biện pháp bảo vệ

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Biểu hiện của bệnh ung thư xương: Những dấu hiệu quan trọng cần biết

Ung thư xương là một loại ung thư hiếm gặp nhưng rất nguy hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc và chức năng của hệ xương. Các triệu chứng của bệnh ung thư xương có thể thay đổi tùy theo loại ung thư, vị trí của khối u, và mức độ tiến triển của bệnh.  

Biểu hiện của bệnh ung thư xương: Những dấu hiệu quan trọng cần biết

1. Đau xương

Bác sĩ các trường Cao đẳng Dược Hà Nội cho biết: Triệu chứng chính và phổ biến nhất của ung thư xương là đau xương. Đau thường bắt đầu nhẹ, có thể cảm nhận như một cơn đau âm ỉ hoặc đau nhói. Cơn đau có xu hướng trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm hoặc khi vận động. Ban đầu, cơn đau có thể không liên tục nhưng sẽ trở nên dai dẳng và nặng hơn theo thời gian. Đối với trẻ em và thanh thiếu niên, đau xương có thể dễ nhầm lẫn với các vấn đề phát triển như đau xương do tăng trưởng.

2. Sưng nề vùng xương bị ảnh hưởng

Sưng tấy hoặc xuất hiện khối u ở vùng xương bị ảnh hưởng cũng là một triệu chứng thường gặp. Khi khối u phát triển, vùng xung quanh xương có thể bị sưng, đỏ, và ấm hơn so với các khu vực khác. Trong một số trường hợp, khối u có thể sờ thấy dưới da, đặc biệt là ở những khu vực như xương chân, cánh tay, hoặc vùng xương chậu.

3. Gãy xương không rõ nguyên nhân

Xương yếu đi và dễ gãy là một biểu hiện quan trọng của ung thư xương. Gãy xương có thể xảy ra ngay cả khi không có tác động mạnh hoặc chấn thương lớn. Điều này xảy ra do khối u làm suy yếu cấu trúc của xương, khiến xương trở nên mỏng manh và dễ bị tổn thương. Khi xương bị gãy, cơn đau sẽ trở nên dữ dội và có thể cần phẫu thuật hoặc các biện pháp điều trị đặc biệt.

4. Giảm khả năng vận động

Giảm khả năng vận động hoặc khó khăn trong việc di chuyển là một triệu chứng khác của bệnh cơ xương khớp ung thư xương. Khi khối u lớn lên và chèn ép các mô xung quanh, bệnh nhân có thể cảm thấy khó khăn khi cử động, đặc biệt là khi khối u xuất hiện ở các khớp hoặc vùng gần khớp. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng khớp bị cứng, mất linh hoạt, hoặc thậm chí bị biến dạng.

5. Sụt cân và mệt mỏi

Sụt cân không rõ nguyên nhân và mệt mỏi là những triệu chứng thường thấy ở bệnh nhân ung thư, bao gồm cả ung thư xương. Cơ thể của bệnh nhân có thể tiêu hao nhiều năng lượng hơn để chống lại sự phát triển của khối u, dẫn đến tình trạng sụt cân nhanh chóng. Mệt mỏi có thể làm giảm chất lượng cuộc sống, khiến bệnh nhân cảm thấy yếu ớt, mất sức, và không có động lực để thực hiện các hoạt động hàng ngày.

Biểu hiện của bệnh ung thư xương

6. Triệu chứng khác

Một số bệnh nhân ung thư xương có thể gặp phải các triệu chứng như sốt, đổ mồ hôi đêm, và thiếu máu. Thiếu máu xảy ra khi cơ thể không sản xuất đủ hồng cầu, dẫn đến triệu chứng mệt mỏi và xanh xao. Sốt và đổ mồ hôi đêm có thể là dấu hiệu của tình trạng nhiễm trùng hoặc viêm nhiễm liên quan đến sự phát triển của khối u.

7. Di căn và các biểu hiện khác

Trong giai đoạn tiến triển, ung thư xương có thể di căn sang các bộ phận khác của cơ thể như phổi, gan, hoặc các cơ quan khác. Khi đó, bệnh nhân có thể xuất hiện các triệu chứng phụ thuộc vào vị trí di căn. Ví dụ, nếu ung thư di căn đến phổi, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc thở, ho, hoặc cảm thấy đau ngực. Nếu ung thư di căn đến não, có thể gây ra các triệu chứng thần kinh như đau đầu, buồn nôn, hoặc thay đổi hành vi.

8. Các yếu tố nguy cơ

Dược sĩ Cao đẳng Dược TP.HCM cho hay: Mặc dù các biểu hiện trên có thể giúp nhận diện ung thư xương, nhưng cũng cần lưu ý rằng các yếu tố nguy cơ như di truyền, tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư, và tiếp xúc với tia xạ cũng góp phần quan trọng trong việc xác định nguy cơ mắc bệnh. Những người có tiền sử bệnh lý xương hoặc đã từng điều trị bằng xạ trị cũng có nguy cơ cao hơn.

Ung thư xương là một căn bệnh nghiêm trọng với nhiều biểu hiện đa dạng. Việc nhận biết sớm các triệu chứng của bệnh có ý nghĩa rất lớn trong việc chẩn đoán và điều trị. Nếu bạn hoặc người thân có bất kỳ biểu hiện nào kể trên, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ ngay lập tức để được tư vấn và thăm khám. Điều này không chỉ giúp phát hiện sớm bệnh mà còn tăng cơ hội điều trị thành công và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Nguồn: benhhoc.edu.vn

Chuyên mục
Bệnh Học Chuyên Khoa

Bệnh Quai Bị – Phòng Tránh Và Điều Trị

Quai bị là một bệnh nhiễm virus toàn thân cấp tính đặc trưng bởi sưng tuyến mang tai và các tuyến nước bọt khác do một loại Paramyxovirus gây nên.

Bệnh thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên; bệnh chỉ mắc một lần. Ngoài biểu hiện viêm tuyến nước bọt còn có thể gặp viêm tinh hoàn, viêm tuỵ, viêm màng não…

1. Tác nhân gây quai bị

Nguyên nhân gây bệnh quai bị là Paramyxovirus. Virus có một lớp lõi hình xoắn ốc kín chứa chuỗi RNA được bọc trong một lớp vỏ lipid và protein. Virus quai bị có hai kháng nguyên: kháng nguyên S xuất phát từ màng nhân và kháng nguyên V từ hemaggglutinin bề mặt. Kháng nguyên V gây bệnh và ngưng kết hồng cầu.

2. Dịch tế học

Bệnh thường xảy ra cuối mùa Xuân, đặc biệt vào tháng 4 và 5. Lây từ người này sang người khác qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt. Bệnh thường dễ lây lan ở những nơi tập trung nhiều người như vườn trẻ, trường học, doanh trại bộ đội…

Thời gian lây truyền: Nguy cơ lây truyền cao nhất từ 6 ngày trước khi khởi phát và kéo dài đến 2 tuần sau khi sưng tuyến mang tai. Người ta phân lập được virus trong nước bọt 7 ngày trước đến 9 ngày sau khi khởi phát, dù cho thời kỳ lây nhiễm có khi ngắn hơn.

Đối tượng: nam nhiều hơn nữ. Bệnh hiếm ở trẻ < 2 tuổi do chúng còn được bảo vệ bởi các kháng thể từ mẹ. Đỉnh cao từ 10-19 tuổi (tưổi thanh thiếu niên), ít gặp ở người cao tuổi.

3. Sinh bệnh học

Virus quai bị xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp. Trong suốt thời kỳ ủ bệnh (khoảng 12-25 ngày) virus phát triển, nhân lên trong biểu mô đường hô hấp trên và các tổ chức bạch huyết vùng cổ. Ở giai đoạn xâm nhập, virus theo đường máu đến các cơ quan khác như màng não, tuyến sinh dục, tụy, tuyến ức, gan, tim, thận và thần kinh trung ương, riêng tuyến nước bọt có lẽ thứ phát sau nhiễm virus máu. Ở giai đoạn toàn phát, virus được cố định ở các cơ quan tuyến và cơ quan thần kinh. Virus được thải chủ yếu qua nước bọt, nhưng cũng được thải qua nước tiểu trong những ngày đầu tiên của bệnh.

4. Giải phẫu bệnh

Những thay đổi bệnh lý được ghi nhận tại tuyến mang tai trong suốt thời kỳ quai bị cấp gồm phù tổ chức kẽ, tẩm nhuận tế bào lympho và xuất tiết các sợi tương dịch. Ống tuyến chứa đầy tế bào hoại tử và neutrophiles.

Những tổn thương tương tự cũng được tìm thấy ở các cơ quan khác như tụy và tinh hoàn. Trong bối cảnh viêm tinh hoàn do quai bị người ta thấy có những vùng nhồi máu và phản ứng viêm nặng nề, hầu hết những vùng này có hiện tượng tế bào biểu mô sinh tinh bị hyaline hóa và xơ hóa

Khi não bị thâm nhiễm, thì viêm não màng não tiên phát với tiêu hủy tế bào thần kinh hoặc thóai hóa myeline sau viêm não có thể xảy ra.

5. Lâm sàng bệnh quai bị

Có khoảng 1/3 trường hợp nhiễm virus quai bị không có triệu chứng.

  • Thời kỳ ủ bệnh: trung bình 18-21 ngày (thay đổi từ 12-25 ngày)
  • Thời kỳ khởi phát: trung bình 24 – 36 giờ. Toàn thân: mệt mỏi, chán ăn, đau nhức mình mẩy, sốt nhẹ, viêm họng, đau tai kéo dài vài ngày trước khi sưng tuyến mang tai
  • Toàn phát: Bắt đầu sưng tuyến mang tai, sốt giảm ( chừng 380C ), đau đầu, có thể có các biểu hiện triệu chứng tại các cơ quan khác.

6. Biểu hiện ở các cơ quan tuyến

  • Viêm tuyến nước bọt mang tai và các tuyến nước bọt khác

Là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất ( khoảng 70 % trường hợp ). Thường đột ngột sau thời kỳ khởi phát, tuyến mang tai sưng đạt tối đa sau 1 – 3 ngày ( có tài liệu : 2 – 6 ngày ) và giảm dần sau 7 – 10 ngày. Đầu tiên chỉ có sưng một bên, sau đó có thể sưng tuyến bên kia. Sưng cả 2 tuyến chiếm 2/3 trường hợp, một đôi khi kèm sưng tuyến nước bọt dưới hàm và dưới lưỡi.

Tuyến mang tai sưng từ tai đến dưới hàm và lan ra tận gò má, mất rảnh trước và sau tai. Vùng da trên tuyến không nóng và đỏ như trong viêm tuyến mang tai nhiễm trùng, có tính đàn hồi và không để lại đấu ấn ngón tay.

Bệnh nhân có cảm giác đau tai, nhất là khi ăn hoặc uống các thức ăn có vị chua do nghẽn ống Wharton hoặc Stenon. Khám họng thấy miệng các lỗ ống tuyến nước bọt có thể trở nên đỏ, phù nề và có những điểm xuất huyết nhỏ. Có thể sưng các hạch dưới hàm.

  • Viêm tinh hòan-mào tinh hoàn

Xảy ra ở 20-30% nam giới sau tuổi dậy thì bị quai bị , hiếm gặp ở trẻ nhỏ.

Trong số này chỉ có 15-25% xảy ra hai bên; 2/3 trường hợp xảy ra trong tuần lễ đầu.

Tòan thân : Sốt cao 39-410C, ớn lạnh, nôn mửa, đau vùng bìu, đau lan lên bụng và đùi. Thăm khám: Vùng da bìu đỏ, nóng, tinh hòan sưng to gấp 3-4 lần bình thường. Các triệu chứng này biến mất sau 1-2 tuần . Gần 85% trường hợp viêm tinh hòan là viêm mào tinh hòan. Có 0,5% trường hợp teo tinh hòan và thường là 1 bên, nếu teo xảy ra ở 2 bên có thể vô sinh hoặc có thể có bất thường về tinh dịch.

  • Viêm tụy

Gặp ở cả người lớn và trẻ em. Xảy ra vào ngày thứ 3-7 sau sưng tuyến mang tai. Bệnh nhân sốt 39-400C, nôn mửa,ì đau thượng vị, bụng có đề kháng nhẹ. Phần lớn trường hợp thường hồi phục hoàn toàn sau một tuần. Hiếm gặp biến chứng sốc hoặc nang giả tuỵ thứ phát.

  • Viêm tuyến vú và viêm buồng trứng

Xảy ra ở nữ sau tuổi dậy thì: Viêm tuyến vú (7-30%)

Viêm buồng trứng (5%): Triệu chứng gồm: sốt, nôn mủa , đau bụng đau hố chậu. Khám vùng hố chậu thấy buồng trứng căng, biến chứng vô sinh ít gặp.

Biểu hiện ở các cơ quan thần kinh

  • Viêm màng não

Gặp ở 5 – 10 % trường hợp quai bị, xảy ra 3-10 ngày sau sưng tuyến mang tai (có khi 2-3 tuần sau). Lâm sàng thường có một hội chứng màng não có sốt. Các triệu chứng này giảm dần sau 3-10 ngày và thường khỏi hòan tòan, không để lại di chứng.

Dịch não tủy có những biến đổi bất thường có thêí kéo dài khỏang 1 tháng: Protein bình thường hoặc tăng nhẹ, Glucose bình thường, Tế bào < 500/mm3, đa số là Lympho, có khỏang 20-25% trường hợp có Neutrophile tăng.

  • Viêm não

Viêm não quai bị ít xảy ra hơn, tần suất 0,5%, nam > nữ, xảy ra 7-10 ngày sau sưng tuyến mang tai hoặc xảy ra cùng lúc. Lâm sàng : hội chứng nhiễm trùng, hội chứng màng não và các dấu hiệu tổn thương não : dấu thần kinh khu trú, lơ mơ, hôn mê hoặc co giật. Bệnh tiến triển có khi rất nặng và để lại di chứng vận động và/hoặc tâm thần, não úng thuỷ, tử vong ( 1,5% trường hợp).

  • Các biểu hiện khác

Viêm cơ tim và màng ngoài tim, Viêm khớp, Rối lọan chức năng thận.

Quai bị ở phụ nữ có thai

Trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai, còn trong 3 tháng cuối có thể gây đẻ sớm. Khả năng gây quái thai của virus quai bị còn chưa rõ.

7. Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

7.1 Chẩn đoán

  • Ở tuyến y tế cơ sở : Chủ yếu dựa vào lâm sàng và dịch tễ : Bệnh nhân có các triệu chứng nhiễm virus, sưng tuyến nước bọt , viêm tinh hoàn…Trong gia đình hoặc lớp học có người đã bị quai bị trước đó vài ngày hoặc đang bị…
  • Ở tuyến tỉnh, trung ương: Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, dịch tễ, kết quả xét nghiệm:
  • CTM: Trong quai bị chỉ có BC giảm nhẹ kèm tăng các tế bào lympho. Trường hợp có viêm tinh hoàn hoặc tổn thương các cơ quan khác bạch cầu có thể tăng với đa số là bạch cầu đa nhân trung tính.
  • Amylase máu và niệu : Tăng trong viêm tụy và viêm các tuyến nước bọt
  • Phân lập virus: Virus có thể phân lập được từ máu, chất tiết ở cổ họng, nước bọt, từ ống Stenon, DNT, nước tiểu.
  • Test ELISA, Miễn dịch phóng xạ, Test cố định bổ thể cho phép xác định hàm lượng các kháng thể IgM và IgG nhanh chóng và đặc hiệu.

7.2 Chẩn đoán phân biệt

Trường hợp có sưng tuyênú mang tai ta cần phân biệt với viêm tuyến mang tai do nhiễm các virus khác (coxaskievirus, virus cúm và phó cúm) hoặc vi khuẩn (có mủ chảy ra ở lổ của ống Stenon, thường do tụ cầu hoặc liên cầu ) hoặc viêm hạch bạch huyết góc hàm do bạch hầu.

Phân biệt viêm tinh hòan do quai bị và một sôï viêm tinh hòan do nhiễm khuẩn hay gặp là: lậu, lao, Lepstospira, thủy đậu , Brucellose…hoặc xoắn tinh hoàn.

8. Điều trị bệnh quai bị

Chưa có điều trị đặc hiệu, tác dụng lên virus quai bị. Chủ yếu là điều trị các triệu chứng xuất hiện trên lâm sàng:

8.1 Trường hợp chỉ có sưng tuyến nước bọt đơn thuần

  • Vệ sinh răng miệng, tránh thức ăn quá chua, ăn lỏng nhẹ,giàu năng lượng.
  • Nghỉ ngơi tại giường đặt ra khi còn sốt, có thể dùng các thuốc Paracetamol hoặc Aspirin để kháng viêm, giảm đau và hạ sốt. Tránh dùng các thuốc kháng viêm non-steroid ở trẻ em.
  • Có thể dùng thêm Vitamine C 1-2 g/ngày bằng đường uống.

8.2 Trưòng hợp có viêm tinh hòan

  • Nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường, chườm lạnh, mặc quần lót bó sát..
  • Dùng thuốc giảm đau và chống viêm như Aspirin và thuốc kháng viêm non- steroid.
  • Vấn đề dùng corticoid chỉ đặt ra khi có viêm não hoặc màng não quai bị hoặc có viêm tinh hòan trầm trọng , viêm tụy .

8.3 Trong các trường hợp viêm tụy

  • Cho bệnh nhân nghỉ ngơi, truyền dịch, nhịn ăn, dùng các thuốc giảm đau, chống nôn.
  • Viêm não – màng não
  • Bệnh nhân phải được điều trị ở phòng cấp cứu.

9. Dự phòng bệnh quai bị

9.1 Dự phòng tập thể

Tuyên truyền cho cộng đồng biết các dấu hiệu nghi ngờ quai bị và cách phòng bệnh. Người mắc quai bị phải được cách ly tối thiểu 9 ngày khi lâm sàng có triệu chứng sưng tuyến mang tai, nhất là khi bệnh nhân ở trong các tập thể như nhà trẻ , trường học ,trại lính .v.v.

9.2 Tạo miễn dịch chủ động

Vắc xin quai bị có hiệu quả bảo vệ > 95% trường hợp có tiếp xúc với nguồn bệnh. Vắc xin được tiêm dưới da liều duy nhất 0,5 ml, có thể dùng đơn độc hoặc kết hợp với sởi và Rubella (MMR: Mump, Measle, Rubella). Đối tượng chủng ngừa là trẻ >12 tháng trở đi . Trẻ em , thanh thiếu niên và người lớn đều có thể chủng ngừa quai bị.

9.3 Miễn dịch thụ động

Dùng globuline miễn dịch chống quai bị. Chỉ có hiệu quả trong 4 ngày đầu sau khi nhiễm virus. Liều duy nhất 0,3 ml/kg cân nặng, tiêm bắp cho đối tượng tiếp xúc với người bệnh mà chưa có miễn dịch hoặc phụ nữ có thai.

Nguồn: Cao đẳng Y Dược

Chuyên mục
Bệnh Cơ Xương Khớp

Người bệnh bị u xương có nguy hiểm không?

U xương là một bệnh lý liên quan đến sự phát triển bất thường của mô xương. Bệnh này có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng thường gặp hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt trong giai đoạn xương phát triển nhanh.

Người bệnh bị u xương có nguy hiểm không?

Để trả lời câu hỏi “Người bệnh bị u xương có nguy hiểm không?”, cần hiểu rõ về bản chất, phân loại, triệu chứng, và phương pháp điều trị của bệnh này trong bài viết được chia sẻ bởi chuyên gia y tế tại các trường Cao đẳng Dược Hà Nội như sau:

U xương là gì?

U xương là sự tăng sinh bất thường của các tế bào xương, dẫn đến hình thành các khối u trong xương. Khối u có thể lành tính hoặc ác tính. Trong đó:

  • U xương lành tính: Không gây ung thư và thường không lan sang các bộ phận khác. Một số loại phổ biến bao gồm u xương xốp, u sụn và u sụn xương.
  • U xương ác tính: Gây ung thư, còn gọi là sarcoma xương. Đây là loại nguy hiểm, có khả năng lan rộng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.

Triệu chứng của u xương là gì?

Triệu chứng bệnh cơ xương khớp của u xương phụ thuộc vào loại u và vị trí xuất hiện. Một số biểu hiện thường gặp bao gồm:

  1. Đau xương: Đau thường âm ỉ và tăng dần theo thời gian, nhất là vào ban đêm hoặc khi hoạt động.
  2. Sưng tấy: Vùng bị u có thể sưng, đôi khi gây biến dạng xương.
  3. Hạn chế vận động: Nếu u xuất hiện gần khớp, có thể gây cứng khớp hoặc khó vận động.
  4. Gãy xương: U làm yếu cấu trúc xương, khiến xương dễ gãy hơn bình thường.

U xương có nguy hiểm không?

Mức độ nguy hiểm của u xương phụ thuộc vào tính chất lành tính hay ác tính của khối u:

  • U lành tính: Thường không nguy hiểm nếu được phát hiện và điều trị kịp thời. Tuy nhiên, một số u lành tính có thể gây biến chứng như chèn ép mạch máu hoặc dây thần kinh.
  • U ác tính: Là tình trạng nghiêm trọng, đòi hỏi điều trị tích cực. Nếu không được kiểm soát, u ác tính có thể lan rộng (di căn) đến các cơ quan khác như phổi hoặc gan, đe dọa tính mạng người bệnh.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ u xương là gì?

Hiện chưa rõ nguyên nhân chính xác gây u xương, nhưng một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh, bao gồm:

  • Di truyền: Một số hội chứng di truyền liên quan đến nguy cơ mắc u xương, như hội chứng Li-Fraumeni.
  • Chấn thương xương: Chấn thương lâu ngày hoặc viêm xương mạn tính có thể làm tăng nguy cơ phát triển u xương.
  • Phơi nhiễm phóng xạ: Tiếp xúc với phóng xạ trong thời gian dài có thể gây biến đổi tế bào xương.

Phương pháp chẩn đoán u xương như thế nào?

Để chẩn đoán u xương, bác sĩ thường kết hợp nhiều phương pháp, bao gồm:

  1. Chụp X-quang: Phát hiện hình ảnh bất thường của xương.
  2. MRI hoặc CT scan: Cung cấp hình ảnh chi tiết hơn, giúp xác định mức độ lan rộng của khối u.
  3. Sinh thiết xương: Lấy mẫu mô từ khối u để kiểm tra tính chất lành tính hay ác tính.
  4. Xét nghiệm máu: Đo nồng độ một số chất chỉ điểm liên quan đến u xương.

Trường Cao đẳng Y Dược Pasteur đào tạo Cao đẳng Xét nghiệm 

Điều trị u xương như thế nào?

Dược sĩ Cao đẳng Dược cho hay: Phương pháp điều trị phụ thuộc vào loại u và mức độ tiến triển của bệnh:

  1. Phẫu thuật: Là phương pháp chính, đặc biệt với các khối u lành tính hoặc ác tính ở giai đoạn đầu. Phẫu thuật thường nhằm loại bỏ hoàn toàn khối u.
  2. Hóa trị: Sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư, thường áp dụng cho u ác tính.
  3. Xạ trị: Sử dụng tia phóng xạ để tiêu diệt tế bào ung thư, áp dụng khi không thể phẫu thuật hoặc kết hợp với hóa trị.
  4. Theo dõi định kỳ: Với u lành tính nhỏ, bác sĩ có thể chỉ định theo dõi mà không cần can thiệp ngay.

Cách phòng ngừa và chăm sóc

Hiện không có biện pháp phòng ngừa hoàn toàn u xương, nhưng việc duy trì lối sống lành mạnh và khám sức khỏe định kỳ có thể giúp phát hiện sớm bệnh. Người bệnh cần:

  • Tăng cường dinh dưỡng: Bổ sung thực phẩm giàu canxi và vitamin D để hỗ trợ sức khỏe xương.
  • Hạn chế nguy cơ chấn thương: Đặc biệt ở trẻ em và người già.
  • Tuân thủ chỉ định điều trị: Đối với người đã mắc bệnh, điều trị đúng cách và theo dõi thường xuyên là rất quan trọng.

U xương có thể nguy hiểm, đặc biệt khi là u ác tính. Tuy nhiên, nếu được phát hiện và điều trị sớm, người bệnh có cơ hội hồi phục và kiểm soát bệnh tốt. Quan trọng nhất là lắng nghe cơ thể, thăm khám kịp thời khi có dấu hiệu bất thường và tuân thủ kế hoạch điều trị do bác sĩ chỉ định.

Nguồn:  benhhoc.edu.vn

Exit mobile version