Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Phân biệt dấu hiệu mắc Chikungunya với sốt xuất huyết

 

Cục Phòng bệnh, Bộ Y tế cho biết, các triệu chứng mắc Chikungunya tương tự như đối với bệnh sốt xuất huyết Dengue nhưng dấu hiệu đau và sưng khớp thường có biểu hiện rõ hơn, trong khi đó bệnh sốt xuất huyết Dengue thường có dấu hiệu xuất huyết nhiều hơn.

Lật úp các dụng cụ không chứa nước để muỗi không vào đẻ trứng. (Ảnh: HCDC)

Phân biệt dấu hiệu mắc Chikungunya với sốt xuất huyết

Bệnh Chikungunya đã ghi nhận đầu tiên vào năm 1952; bệnh không lây truyền trực tiếp từ người sang người mà lây truyền qua vết đốt của muỗi Aedes (loại muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết). Hầu hết các triệu chứng thường tự khỏi và kéo dài từ 2 đến 7 ngày nhưng cũng có thể kéo dài hàng tuần ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.

Các triệu chứng của Chikungunia xuất hiện từ 4 đến 8 ngày (dao động từ 2 đến 12 ngày) sau khi bị muỗi nhiễm bệnh đốt. Bệnh đặc trưng bởi sốt cao, khởi phát đột ngột, thường kèm theo đau khớp dữ dội.

Các dấu hiệu và triệu chứng phổ biến khác bao gồm cứng khớp, viêm khớp, đau đầu, mệt mỏi và phát ban. Các triệu chứng tương tự như đối với bệnh sốt xuất huyết Dengue nhưng dấu hiệu đau và sưng khớp thường có biểu hiện rõ hơn, trong khi đó bệnh sốt xuất huyết Dengue thường có dấu hiệu xuất huyết nhiều hơn.

Tuy nhiên, người dân không nên tự ý chẩn đoán, điều trị tại nhà. Khi có các dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh, phải đến ngay cơ sở y tế nơi gần nhất để được tư vấn, khám, điều trị kịp thời.

Theo đại diện Cục phòng bệnh, Bộ Y tế, hiện, hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm ở nước ta chưa ghi nhận báo cáo trường hợp bệnh Chikungunya từ các địa phương.

Tuy nhiên, dịch bệnh Chikungunya đang có xu hướng gia tăng tại một số quốc gia trong khu vực, đặc biệt tại Trung Quốc; trong khi đó, muỗi Aedes truyền bệnh cũng đã lưu hành tại nhiều địa phương ở nước ta; do đó, có nguy cơ cao dịch bệnh xâm nhập vào nước ta thông qua người nhập cảnh mang mầm bệnh và lây lan ra cộng đồng.

Người về từ khu vực có dịch bệnh Chikungunya cần chủ động theo dõi sức khỏe

Nhằm chủ động kiểm soát, phòng chống dịch, Bộ Y tế đã ban hành công văn gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đề nghị triển khai tăng cường giám sát dịch ngay tại cửa khẩu, các cơ sở y tế và cộng đồng nhằm phát hiện sớm ca bệnh nghi ngờ, đặc biệt tại những khu vực có người trở về từ vùng có dịch;

Bộ Y tế đã chỉ đạo Sở Y tế các tỉnh, thành phố tăng cường giám sát, phát hiện sớm các trường hợp nghi ngờ để xử lý triệt để các ổ dịch ngay từ ca bệnh đầu tiên; đồng thời tổ chức tốt việc sẵn sàng thu dung, điều trị bệnh nhân, phân cấp chuyên môn để tránh tình trạng quá tải bệnh viện.

Đồng thời, Bộ Y tế cũng đã chỉ đạo các Viện Vệ sinh dịch tễ, Viện Pasteur, các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống dịch bệnh Chikungunya trên địa bàn phụ trách, đặc biệt đối với các tỉnh có biên giới; hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật cho các địa phương trong công tác giám sát, điều trị bệnh nhân, giám sát véc tơ, xử lý triệt để ổ dịch và tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát, hỗ trợ các điểm nóng, nguy cơ bùng phát dịch.

Cục Phòng bệnh đang phối hợp chặt chẽ với WHO và các Cơ quan đầu mối quốc gia thực hiện Điều lệ y tế quốc tế theo dõi tình hình dịch bệnh và chia sẻ thông tin tình hình dịch bệnh, các biện pháp phòng, chống để kịp thời báo cáo và đề xuất các biện pháp phòng, chống dịch bệnh phù hợp, hiệu quả.

Để chủ động phòng, chống bệnh Chikungunya, Bộ Y tế khuyến cáo mạnh mẽ người dân thực hiện các biện pháp phòng bệnh sau:

Người về từ các quốc gia, khu vực đang có sự gia tăng dịch bệnh Chikungunya: Cần chủ động theo dõi sức khỏe trong vòng 12 ngày; nếu có bất kỳ dấu hiệu bất thường về sức khỏe (như sốt, đau khớp, nổi ban…) cần đến ngay cơ sở y tế để được khám, tư vấn và điều trị kịp thời.

Người dân tại các hộ gia đình, khu dân cư, cần thực hiện tốt các nội dung sau: Đậy kín tất cả các dụng cụ chứa nước để muỗi không vào đẻ trứng; hàng tuần thực hiện các biện pháp diệt loăng quăng/bọ gậy bằng cách thả cá vào dụng cụ chứa nước lớn; thau rửa dụng cụ chứa nước vừa và nhỏ, lật úp các dụng cụ không chứa nước; thay nước bình hoa/bình bông; bỏ muối hoặc dầu hoặc hóa chất diệt ấu trùng vào bát nước kê chân chạn.

Hàng tuần loại bỏ các vật liệu phế thải, các hốc nước tự nhiên không cho muỗi đẻ trứng như chai, lọ, mảnh chai, vỏ dừa, mảnh lu vỡ, lốp/vỏ xe cũ, hốc tre, bẹ lá…

Người dân cần chú ý ngủ màn, mặc quần áo dài phòng muỗi đốt ngay cả ban ngày; tích cực phối hợp ngành y tế trong các đợt phun hóa chất phòng, chống dịch; khi bị sốt đến ngay cơ sở y tế để được khám và tư vấn điều trị. Không tự ý điều trị tại nhà.

Người dân khi đi du lịch, công tác tại các vùng bệnh Chikungunya đang tăng cao cần chủ động phòng ngừa tránh muỗi đốt. Chủ động theo dõi sức khỏe và thông báo cho cơ quan y tế khi có triệu chứng giống Chikungunya.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Lâm Đồng tăng cường phòng chống dịch sau số ca bệnh gia tăng

Ngày 12/8, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng cho biết đã chỉ đạo ngành y tế và các địa phương bảo đảm nguồn nhân lực, hóa chất, thiết bị y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh sau khi liên tục ghi nhận số ca mắc bệnh sởi, sốt xuất huyết, tay chân miệng gia tăng.

Cơ quan chức năng tổ chức phun hóa chất xử lý ổ dịch sốt xuất huyết tại nhà dân ở tỉnh Lâm Đồng.

Theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng yêu cầu Sở Y tế và các sở, ban, ngành, địa phương chủ động, quyết liệt chỉ đạo, triển khai hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, không để dịch bùng phát trên địa bàn; bảo đảm nhân lực, thuốc, hóa chất, thiết bị y tế và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm.

Bố trí, phân công các đội cơ động chống dịch tại các khu vực có nguy cơ cao, sẵn sàng tham gia triển khai thực hiện xử lý các tình huống khi có dịch bệnh xảy ra. Chủ động tổ chức các đoàn đi kiểm tra, giám sát, hỗ trợ công tác phòng, chống dịch bệnh tại các đơn vị, địa phương.

Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với ngành Y tế triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh tại các cơ sở giáo dục, nhất là các trường mẫu giáo, mầm non, nhà trẻ, nhằm sớm phát hiện các trường hợp mắc để tổ chức khám, điều trị và xử lý ổ dịch kịp thời.

Theo Sở Y tế Lâm Đồng, tình hình dịch bệnh trên địa bàn tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, nguy cơ tiềm ẩn bùng phát thành dịch, đặc biệt là các ca mắc bệnh sởi, sốt xuất huyết, tay chân miệng gia tăng trong các tuần gần đây.

Tính đến ngày 6/8, toàn tỉnh ghi nhận 3.922 ca mắc bệnh sởi, tăng 3.857 ca so với cùng kỳ; 1.582 ca mắc bệnh tay chân miệng, tăng 344 ca so với cùng kỳ; 2.723 ca mắc bệnh sốt xuất huyết, 1 trường hợp tử vong; 253 ca nghi mắc bệnh Covid-19, tăng 127 ca so với cùng kỳ.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Bảy lần mổ hoại tử ruột mới phát hiện ra đúng bệnh

Sự kết hợp của 2 đột biến gene liên quan rối loạn chuyển hóa homocysteine và ức chế tiêu sợi huyết là “thủ phạm” thầm lặng gây tắc tĩnh mạch mạc treo tràng dưới và dẫn đến 7 lần mổ ruột trong suốt 3 năm qua cho nam bệnh nhân. 

Vết sẹo mổ hoại tử ruột của bệnh nhân.

Trong vòng 3 năm, người đàn ông trải qua tới 7 lần phẫu thuật vì hoại tử đại tràng. Không chấp nhận sống chung với nguy cơ cắt ruột thêm lần nữa, bệnh nhân tìm đến Medlatec với hy vọng tìm ra câu trả lời cuối cùng.

Bệnh nhân nam, sinh năm 1969, sống tại Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk. Trong vòng 3 năm, ông phải trải qua tới 7 lần phẫu thuật vì hoại tử đại tràng do tắc tĩnh mạch mạc treo tràng dưới – một bệnh lý rất hiếm gặp.

Tĩnh mạch mạc treo tràng dưới là mạch máu quan trọng dẫn máu từ ruột già về gan. Khi tĩnh mạch này bị tắc bởi cục máu đông, máu không thể lưu thông, ruột bị thiếu máu nuôi, dẫn tới hoại tử. Tình trạng này thường diễn tiến nhanh, gây đau bụng dữ dội, chướng bụng, nôn ói và đe dọa tính mạng nếu không phẫu thuật kịp thời.

Bệnh dễ bị chẩn đoán nhầm là “vô căn” – tức không rõ nguyên nhân, chính vì vậy, dù đã trải qua nhiều lần mổ, nguyên nhân gốc rễ của bệnh vẫn chưa được tìm ra, khiến tình trạng tái phát liên tục.

Không chấp nhận tiếp tục sống trong nỗi lo cắt ruột thêm một lần nữa, bệnh nhân quyết định vượt hơn 1.400 km từ Buôn Ma Thuột ra Hà Nội, tìm đến Bệnh viện Đa khoa Medlatec. Tại đây, ông được bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Quang Minh, Trưởng khoa Tim mạch trực tiếp thăm khám.

Sau khi khai thác kỹ tiền sử bệnh, xem xét hồ sơ y tế và các lần mổ trước đó, bác sĩ Minh nghi ngờ nguyên nhân sâu xa là do bệnh lý tăng đông máu di truyền (thrombophilia).

Bệnh nhân được chỉ định xét nghiệm đột biến gene thrombophilia và kết quả cho thấy đột biến dị hợp tử MTHFR A1298C và PAI-1/Serpine 1 – hai gene liên quan đến rối loạn chuyển hóa homocysteine và ức chế tiêu sợi huyết, làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông tĩnh mạch mạn tính.

Sự kết hợp của 2 đột biến này khiến cơ thể luôn ở trạng thái “ngầm” tăng đông, mà không có các dấu hiệu rõ ràng như rung nhĩ, ung thư hay hội chứng kháng phospholipid. Đây chính là “thủ phạm” thầm lặng gây tắc tĩnh mạch mạc treo tràng dưới và dẫn đến 7 lần mổ ruột trong suốt 3 năm qua.

Hiện tại, bệnh nhân được chỉ định sử dụng thuốc chống đông đường uống tác động trực tiếp (DOAC) dài hạn để dự phòng huyết khối, kết hợp tái khám định kỳ hoặc thực hiện xét nghiệm theo dõi tại nhà nhằm kiểm soát tình trạng đông máu. Sau 6 tháng điều trị, tình trạng bệnh nhân ổn định.

Đây là một ca bệnh điển hình cho vai trò của y học chính xác (precision medicine). Trong nhiều trường hợp huyết khối tái phát không rõ nguyên nhân, xét nghiệm gen là “chìa khóa” giúp tìm ra nguyên nhân tiềm ẩn, từ đó đưa ra hướng điều trị dự phòng hiệu quả.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Biến chứng nghiêm trọng vì tự ý dùng thuốc chống viêm Phenylbutazone đã bị cấm tại Việt Nam

Chỉ trong nửa đầu năm 2025, Bệnh viện Bạch Mai đã tiếp nhận hàng loạt ca biến chứng nghiêm trọng từ việc lạm dụng thuốc chống viêm Phenylbutazone đã bị cấm tại Việt Nam.

Hình ảnh phát ban toàn thân do dị ứng.

Dị ứng nặng vì sử dụng thuốc đã bị cấm

Bệnh nhân nam (51 tuổi, Hải Phòng) đã tự mua Phenylbutazone online trị đau khớp, dẫn tới sốt cao, phát ban toàn thân. Trường hợp khác, bệnh nhân nam (66 tuổi, Nghệ An) được người nhà cho dùng Phenylbutazone 35 ngày dẫn tới ban đỏ xuất huyết, sốt.

Tương tự như vậy, bệnh nhân nam (39 tuổi, Phú Thọ) nhập viện trong tình trạng sốt, đau họng, phát ban toàn thân cũng như tự mua thuốc online uống 30 ngày.

Cả 3 trường hợp này đều được chẩn đoán mắc hội chứng dress.

Đáng tiếc nhất là một trường hợp bệnh nhân nữ (70 tuổi, Hòa Bình) đã tự dùng Phenylbutazone và thuốc không rõ nguồn gốc dẫn tới tình trạng sốt cao, loét miệng, đau mắt, suy gan cấp, sốc nhiễm khuẩn và tử vong vì mắc hội chứng Lyell.

Đây là 4 trong một loạt ca bệnh dị ứng thuốc nặng do Phenylbutazol được tiếp nhận tại Trung tâm Dị ứng và Miễn dịch lâm sàng từ đầu năm 2025 đến nay.

Hầu hết các trường hợp đều khởi phát muộn, ít nhất 1 tuần kể từ khi bắt đầu dùng thuốc, thậm chí có thể sau 1-3 tháng mới xuất hiện triệu chứng. Do đó gây khó khăn trong việc khai thác tiền sử để tìm nguyên nhân gây dị ứng. Tên thuốc thường là tiếng nước ngoài, người bệnh không thể nhớ hoặc đọc lại đúng tên biệt dược hoặc hoạt chất đã dùng cho bác sĩ khi khám bệnh.

Đồng thời, những triệu chứng ban đầu của bệnh có thể gây nhầm lẫn với những triệu chứng do bệnh lý nhiễm trùng, do đó, người bệnh có thể đến khám tại các chuyên khoa khác, dẫn tới mất thời gian để được chẩn đoán đúng bệnh, dẫn đến không được can thiệp điều trị sớm.

Từ những trường hợp này, mới đây, Trung tâm Dị ứng và Miễn dịch lâm sàng, Bệnh viện Bạch Mai phát đi cảnh báo khẩn cấp loại thuốc chống viêm Phenylbutazone đã bị cấm tại Việt Nam nhưng vẫn được rao bán tràn lan trên mạng xã hội.

Bệnh nhân mắc hội chứng dress.

Cảnh báo khẩn cấp việc sử dụng thuốc Phenylbutazone

Phenylbutazone là thuốc chống viêm không steroid (NSAID) đã bị Bộ Y tế cấm lưu hành từ năm 2013 theo Công văn số 2760/QLD-CL ngày 25/4/2013.

Thuốc bị cấm với lý do là nguy cơ gây ra các phản ứng dị ứng cực kỳ nghiêm trọng, đe dọa tính mạng như: Hội chứng dress: Sốt cao, phát ban toàn thân, tổn thương nội tạng (gan, thận, tim, phổi); hội chứng Lyell (hoại tử da nhiễm độc): Da bong tróc như bỏng nặng, nhiễm trùng, suy đa tạng, tử vong cao; suy tủy xương, xuất huyết tiêu hóa, suy thận cấp.

Bác sĩ Chu Chí Hiếu – Trưởng phòng Dị nguyên, Trung tâm Dị ứng và Miễn dịch lâm sàng cho biết, các trường hợp dị ứng thuốc nặng này, ngoài việc mất nhiều thời gian để có thể phục hồi hoàn toàn, dù đã khỏi thì vẫn có nguy cơ tái phát (kể cả không tiếp xúc lại với thuốc) và tiềm ẩn nhiều biến chứng muộn sau này.

“Phenylbutazone là thuốc cấm vì nguy cơ gây dị ứng nghiêm trọng, suy đa tạng, thậm chí tính mạng người bệnh. Các ca bệnh là minh chứng rõ ràng nhất. Do đó, người dân tuyệt đối không tự ý mua, sử dụng bất kỳ thuốc gì khi chưa có chỉ định bác sĩ!”, bác sĩ Hiếu cho hay.

Theo Tiến sĩ, bác sĩ cao cấp Nguyễn Hoàng Phương – Giám đốc Trung tâm Dị ứng và Miễn dịch lâm sàng, Chủ tịch Hội Hen-Dị ứng-Miễn dịch lâm sàng Việt Nam khuyến cáo: “Việc mua bán thuốc cấm như Phenylbutazone online là hành vi vô trách nhiệm, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng người dân! Chúng tôi kịch liệt lên án và kêu gọi cơ quan chức năng xử lý nghiêm minh mọi đối tượng vi phạm. Sức khỏe người dân không phải món hàng để trục lợi! Hãy nói không với thuốc không rõ nguồn gốc!”.

Do đó, các chuyên gia khuyến cáo, mọi người tuyệt đối không mua, sử dụng thuốc Phenylbutazone hay bất kỳ thuốc không rõ nguồn gốc, không kê đơn. Đặc biệt, không tự ý dùng thuốc theo mách bảo, quảng cáo trên mạng, nhất là thuốc trị đau xương khớp “thần tốc”; tố cáo các trang web, tài khoản mạng xã hội, cơ sở bán thuốc bất hợp pháp cho cơ quan chức năng (Y tế, Công an, Quản lý thị trường).

Mọi người cần đến ngay cơ sở y tế nếu xuất hiện bất kỳ triệu chứng bất thường (sốt, phát ban, mệt mỏi, vàng da, loét miệng…) sau khi dùng thuốc.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Những thách thức trong chuyển đổi số ngành y tế

 Theo góc nhìn từ chuyên gia an ninh mạng, hiện nay, nhiều cơ sở y tế vẫn dùng hồ sơ giấy, chưa liên thông hoặc đồng bộ hệ thống giữa các bệnh viện địa phương và Trung ương, dẫn đến khó truy xuất thông tin và chi phí lưu trữ cao.

Chuyển đổi số ngành y tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ y tế kịp thời – Ảnh: VGP/HM

Dữ liệu rời rạc, bị lộ lọt

Tại diễn đàn “Chuyển đổi số y tế – thời cơ đột phá” do Hiệp hội bệnh viện tư nhân Việt Nam tổ chức mới đây, dưới góc nhìn của một chuyên gia an ninh mạng, ông Ngô Minh Hiếu (Hiếu PC), Giám đốc Dự án phòng Chống lừa đảo chia sẻ, nhiều bệnh viện ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ rò rỉ dữ liệu bệnh án, hồ sơ điều trị, kết quả xét nghiệm ung thư, HIV…

Ví dụ điển hình, không ít người bệnh từng bất ngờ khi vừa xuất viện vài giờ đã nhận được cuộc gọi hoặc tin nhắn giới thiệu thuốc bổ, thiết bị hỗ trợ, thậm chí có sản phụ vừa sinh con, đã nhận được lời mời chào dịch vụ điều dưỡng tại nhà…

Những trường hợp này ngày càng phổ biến, hé lộ thực trạng dữ liệu cá nhân – trong đó có dữ liệu y tế đang bị rò rỉ, thậm chí bị mua bán công khai.

Theo ông Hiếu, mỗi tháng có khoảng 2.000 – 3.000 vụ rao bán dữ liệu cá nhân tại Việt Nam, với số lượng mỗi vụ từ vài nghìn đến hàng triệu dòng dữ liệu. Khoảng 2/3 người dân Việt Nam đã bị lộ lọt thông tin cá nhân.

Trong số này, dữ liệu y tế là một loại thông tin được đánh giá đặc biệt nhạy cảm, bao gồm họ tên, số điện thoại, địa chỉ, bệnh lý, đơn thuốc, kết quả cận lâm sàng, bảo hiểm y tế… Tội phạm mạng có thể lợi dụng để lừa đảo, trục lợi bảo hiểm, hoặc bán lại cho các công ty tiếp thị.

“Nhiều cơ sở y tế hiện vẫn lưu trữ dữ liệu rời rạc, không mã hóa, dễ bị truy cập hoặc sao chép trái phép. Có hiện tượng nhân viên y tế, công ty vận hành phần mềm bệnh viện cấu kết bán dữ liệu để trục lợi”, ông Hiếu chia sẻ.

Không chỉ bị tuồn lén, dữ liệu y tế còn là mục tiêu tấn công của hacker nhằm đòi tiền chuộc.

Ví dụ điển hình, trong 3 tháng ở Mỹ đã ghi nhận hơn 20 trường hợp bệnh viện bị tấn công bằng ransomware – loại mã độc chuyên dùng để mã hóa dữ liệu và đòi tiền chuộc. Việt Nam cũng đã ghi nhận những vụ tương tự, nhưng các đơn vị không công bố vì lo ảnh hưởng đến uy tín.

Chuyên gia an ninh mạng Ngô Minh Hiếu

Từ các thách thức hiện hữu

Hiện nay, nhiều cơ sở y tế vẫn dùng hồ sơ giấy, chưa liên thông hoặc đồng bộ hệ thống giữa các bệnh viện địa phương và Trung ương, dẫn đến khó truy xuất thông tin và chi phí lưu trữ cao.

Năng lực nhân lực công nghệ thông tin cũng thiếu chuyên gia về kỹ thuật số, khi nhiều bác sĩ hoặc nhân viên chưa được đào tạo về sử dụng hệ thống số và ứng dụng AI trong khám chữa bệnh.

Bên cạnh đó, khung quản lý chưa đầy đủ, chưa phổ biến rộng rãi các hướng dẫn bảo mật dữ liệu y tế theo quy định của Bộ Y tế; sự bất bình đẳng số (digital divide) như kết nối Internet yếu, đặc biệt tại vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; kỹ năng sử dụng công nghệ phân hoá giữa đô thị và nông thôn.

Về phía nhân viên y tế và bệnh nhân khó thích nghi, do thiếu đào tạo, hỗ trợ và nhận thức còn hạn chế về lợi ích của chuyển đổi số.

…đến chiến lược tổng thể

Ông Ngô Minh Hiếu cũng chia sẻ, trong khu vực Đông Nam Á, các quốc gia đã triển khai y tế số thành công thông qua hệ thống Telehealth, mHealth, hệ thống bệnh viện thông tin, dữ liệu lớn, AI nhưng gặp hạn chế tương tự như Việt Nam: thiếu hạ tầng, pháp lý, kỹ năng và khung bảo mật.

Tại nhiều nước phát triển, việc chuyển đổi số y tế toàn diện thường tập trung vào hồ sơ bệnh án điện tử (EHR/EMR), nhưng luôn đối mặt nguy cơ đánh mất riêng tư nếu không kiểm soát dữ liệu tập trung và lỏng lẻo về chính sách bảo vệ cá nhân.

Ví dụ, với ứng dụng mHealth, các ứng dụng di động y tế phát triển nhanh nhưng dễ tổn thương do thiếu tiêu chuẩn phát triển bảo mật, thiếu đào tạo dành cho nhà phát triển và quy trình kiểm thử hạn chế.

Đối với Việt Nam, ông Ngô Minh Hiếu khuyến cáo cần có chiến lược tổng thể hoàn thiện khung pháp lý và tiêu chuẩn công nghệ thông tin y tế, hướng dẫn cụ thể về bảo mật dữ liệu, phân quyền truy cập và chuẩn hoá thông tin bệnh án điện tử.

Xây dựng chuẩn kết nối dữ liệu quốc gia (interoperability) để giúp các HIS, LIS, RIS‑PACS thực sự liên thông dữ liệu hiệu quả.

Về an ninh và bảo mật, cần áp dụng mô hình quản trị định danh toàn quốc (như VNeID) tích hợp xác thực điện tử để xác minh người dùng khi truy cập dữ liệu y tế.

Đồng thời cần phân quyền nghiêm ngặt, giới hạn truy cập theo vai trò, bảo vệ đầu cuối bằng mã hóa, xác thực đa yếu tố và giám sát phiên truy cập; đào tạo và nâng cao nhận thức bảo mật cho nhân viên y tế, nhà phát triển, các bên liên quan về các rủi ro và quy trình ứng phó.

Về hạ tầng và nguồn lực, tăng cường đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt tại vùng sâu vùng xa để đảm bảo kết nối ổn định khi triển khai EMR toàn quốc. Phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật số chất lượng cao, từ chuyên gia bảo mật, phân tích dữ liệu đến ứng dụng AI phục vụ khám chữa bệnh.

Thử nghiệm, giám sát hiệu quả và nghiên cứu liên tục, sử dụng mô hình “researcher-in-the-loop” để đánh giá, điều chỉnh triển khai trong thực tiễn.

Và những lợi thế của y tế Việt Nam

Chuyên gia này cũng nhìn nhận, những lợi thế hiện tại của ngành Y tế Việt Nam trong chuyển đổi số, đó là quy mô dân số lớn và phát triển Internet nhanh, với tỷ lệ sử dụng smartphone và Internet cao, là nền tảng cho telehealth và mHealth phát triển nhanh.

Đồng thời, các cam kết về chính sách từ các Quyết định như 5316/QĐ‑BYT (năm 2020), 4888/QĐ‑BYT (năm 2019), 1165/QĐ‑TTg (năm 2023), đã xây dựng lộ trình rõ ràng về EMR, telemedicine, dữ liệu dân cư, chứng thực điện tử.

Hệ thống y tế tập trung có thể triển khai quy mô quốc gia, dù còn nhiều bệnh viện tư nhân, nhưng hệ thống công lập Trung ương hoá giúp khả năng triển khai đồng bộ trên diện rộng cao hơn.

Từ ứng phó COVID‑19, Việt Nam cũng đã có kinh nghiệm triển khai sớm nhiều ứng dụng số trong giám sát, tư vấn, telemedicine, truyền thông nguy cơ, tạo cơ sở và niềm tin mở rộng hệ thống số y tế.

Tại cuộc họp Ban chỉ đạo về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số y tế tổ chức tháng 3/2025, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ liên quan đến phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 787/QĐ-BYT và Kế hoạch hành động của Bộ Y tế thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Theo đó, Bộ Y tế xác định ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số vào công việc thường xuyên của các đơn vị, đặc biệt tại các cơ sở y tế là yêu cầu rất cấp bách. Điều này đặt ra rất nhiều cơ hội và những thách thức để vận dụng được tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng tại Nghị quyết 57-NQ/TW, Chương trình hành động của Chính phủ, cụ thể hóa thành những công việc hàng ngày của các đơn vị thuộc Bộ…

Tại cuộc họp đánh giá tình hình triển khai Đề án 06 của Chính phủ và Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong ngành y tế, tổ chức ngày 8/7 vừa qua, Bộ trưởng tiếp tục nhấn mạnh, chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm và cấp thiết, đòi hỏi sự chủ động, quyết liệt, phối hợp chặt chẽ của tất cả các đơn vị. Việc chậm trễ, thiếu trách nhiệm sẽ được kiểm điểm cụ thể.

Nguồn:  baochinhphu.vn 

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Tàu hải quân kịp thời đưa ngư dân gặp nạn đi cấp cứu

Trong quá trình đánh bắt hải sản, ngư dân Trần Văn Tỷ (sinh năm 1989, đặc khu Phú Quý, Bình Thuận) gặp nạn và được tàu hải quân đưa đi cấp cứu kịp thời.

Gần trưa 12/8, tàu 937 của Hải đoàn 129 Hải quân nhận được thông báo từ bác sĩ tại đảo Đá Tây về việc ngư dân Trần Văn Tỷ bị tai nạn trong quá trình khai thác hải sản trên biển.

Ngư dân Trần Văn Tỷ được tàu hải quân kịp thời đưa đi cấp cứu.

Ông Tỷ là thuyền viên tàu cá BTh-96617TS do ông Trần Hỏn (đặc khu Phú Quý, Bình Thuận) làm thuyền trưởng.

Bác sĩ đảo Đá Tây chẩn đoán ngư dân này bị giảm áp do lặn sâu, có triệu chứng đau cơ tứ chi, yếu liệt, đi lại khó khăn… cần được chuyển gấp sang Bệnh xá đảo Trường Sa (đặc khu Trường Sa, Khánh Hòa) để cấp cứu.

Sau khi tiếp nhận, cán bộ, chiến sĩ tàu 937 đã chăm sóc sức khỏe, động viên tinh thần và bảo đảm an toàn tuyệt đối cho ngư dân trong suốt hành trình. 

Khi tàu cập cảng đảo Trường Sa, ngư dân được bàn giao cho Bệnh xá đảo Trường Sa tiếp tục cấp cứu.

Hiện ngư dân Tỷ đang được truyền dịch, thở oxy, tinh thần ổn định và có tiến triển tốt.

Nguồn: suckhoedoisong.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Việt Nam ghi thêm kỳ tích trên bản đồ ghép tạng với ca ghép đồng thời tim-phổi đầu tiên

“21 ngày qua thật sự rất căng thẳng với chúng tôi khi lần đầu tiên ghép đồng thời tim-phổi. Hôm nay, cả ê-kíp mới được giải tỏa căng thẳng và rất mừng 1-2 tuần nữa, chúng tôi có thể trả cho gia đình em một người khỏe mạnh”, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức Dương Đức Hùng xúc động chia sẻ.

Bệnh nhân đang hồi phục sức khỏe sau khi được ghép tim-phổi.

“Cân não” để hồi sinh cho người bệnh suy tim-phổi

Người bệnh Trần Như Q (38 tuổi) có tiền sử thông liên nhĩ-tăng áp động mạch phổi nặng đã bít dù thông liên nhĩ tại Bệnh viện Tim Hà Nội năm 2011, không theo dõi thường xuyên, mới dùng thuốc được 1 năm trở lại, bệnh nhân không có tiền sử tai biến mạch máu não.

Bệnh nhân vào viện được chẩn đoán mắc hội chứng eisenmenger – suy thất phải không hồi phục, hở ba lá nặng. Bệnh nhân có tiền sử bít dù thông liên nhĩ, khả năng tử vong tính theo ngày, có chỉ định ghép cả tim và phổi đồng thời dù không kịp thời gian điều trị suy dinh dưỡng và phổi người hiến có nhiễm khuẩn Acinetor baummani và to hơn lồng ngực người nhận.

“Bệnh nhân nằm viện nhiều tháng dài. Chúng tôi đã nghĩ, đây có lẽ là lần cuối cùng bệnh nhân nằm viện nếu không có tạng ghép”, Tiến sĩ, bác sĩ Dương Đức Hùng chia sẻ.

Ngay khi có thông tin có người bệnh chết não hiến tạng là một nam thanh niên, các bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã tiến hành hội chẩn khẩn cấp. “Vấn đề nhiều người đặt ra, nếu dồn cả tim-phổi cho bệnh nhân mà không thành công, sẽ làm mất đi cơ hội của 2 người khác?”, trước câu hỏi này, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức quyết tâm cứu người bệnh theo nguyên tắc, ai nặng hơn được ưu tiên ghép tạng.

Các bác sĩ tiến hành ghép tim-phổi cho bệnh nhân.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hữu Lư, Phó Trưởng khoa Tim mạch-Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết, bệnh viện đã chuẩn bị ca ghép này cả năm qua và được Bộ Y tế thẩm định đề án “Ghép phổi và khối tim-phổi”.

Trải qua thời gian 7 giờ đồng hồ, hơn 40 chuyên gia đầu ngành đã cùng thực hiện ca ghép tim-phổi đồng thời cho người bệnh. Các chuyên gia phải sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể thay thế tạm thời tim và phổi trong thời gian 7 giờ; bảo đảm bảo hoạt động tốt nhưng cần tránh truyền nhiều dịch gây phù phổi, dùng ít thuốc mê và đưa vào các phương tiện theo dõi huyết động tiên tiến nhất.

Một thách thức đặt ra là phổi người cho không tương thích nên các bác sĩ phải cắt bớt phổi hai bên cho vừa, nối hai phế quản gốc thay vì nối khí quản theo kinh điển để tưới máu miệng nối tốt hơn, soi phế quản ống mềm trong mổ đánh giá 2 miệng nối phế quản gốc.

Sau ghép, bệnh viện cũng tiến hành hội chẩn đa khoa thường xuyên vì người bệnh được dùng thuốc ức chế miễn dịch mạnh nhưng rất dễ nhiễm khuẩn vì thông với bên ngoài và phổi hiến nhiễm khuẩn A. Baummani đa kháng sẵn, do đó cần cân bằng liều thuốc ức chế miễn dịch (vì thuốc làm giảm đề kháng).

Tiến sĩ, bác sĩ Dương Đức Hùng, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức chia sẻ về ca phẫu thuật.

Bên cạnh đó,để điều trị suy thận do nhiều nguyên nhân, ê-kíp đã hội chẩn ngừng kháng sinh độc thận và kiểm soát nồng độ thuốc ức chế miễn dịch để thận ít độc và hồi phục sau 2 tuần. Đồng thời, tăng nuôi dưỡng tĩnh mạch và tiêu hóa, làm sạch phổi bằng mở khí quản, soi hút và tập phục hồi chức năng. Bệnh nhân tiếp tục được theo dõi hồi sức sau ghép.

Nhìn lại thành quả ca ghép tim-phổi đầu tiên thành công tại Việt Nam, Tiến sĩ, bác sĩ Dương Đức Hùng xúc động nói: “Chúng tôi đã trả được cho mẹ của bệnh nhân một người con, trả cho con trai 13 tuổi một người mẹ và trả cho các em của bệnh nhân một người chị khỏe mạnh. Đây là điều chúng tôi rất hạnh phúc”.

Bà Vũ Thị Đức, mẹ bệnh nhân xúc động chia sẻ về sự hồi sinh của con gái mình.

Chứng kiến hành trình hồi sinh của con gái, bà Vũ Thị Đức (65 tuổi) – mẹ bệnh nhân nghẹn ngào: “Trước khi được ghép, con tôi phải nằm viện 3 tháng, sức khỏe rất yếu, phải ngồi xe đẩy không thể tự đi được. Nhìn thấy con đi vào phòng mổ, tôi chỉ biết giơ tay chào con rơi nước mắt mà không biết nói sao, không biết con mình có được ghép thành công không. Khi ca mổ thành công, cả đêm tôi không ngủ được. Bây giờ phấn khởi lắm. Xin cảm ơn các bác sĩ bệnh viện đã thực hiện ca mổ thành công để trả lại cho gia đình tôi một người con, người mẹ, người chị”.

Dấu mốc quan trọng trên bản đồ ghép tạng Việt Nam

Sự thành công của ca ghép đồng thời tim-phổi cho bệnh nhân suy đa tạng đã mở ra một dấu mốc quan trọng, khẳng định bước tiến vượt bậc của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức trong lĩnh vực ghép đa tạng, đồng thời đặt dấu mốc cho y học Việt Nam trên bản đồ thế giới và mở ra nhiều cơ hội cứu sống người bệnh nguy kịch.

Đây là ca bệnh đặc biệt hiếm gặp, đòi hỏi sự phối hợp liên chuyên khoa, áp dụng những kỹ thuật phẫu thuật và hồi sức tiên tiến hàng đầu hiện nay.

Ghép khối tim-phổi là một kỹ thuật y học tiên tiến, trong đó cả tim và hai phổi của người bệnh được thay thế đồng thời bằng tim và hai phổi khỏe mạnh từ người hiến tạng phù hợp. Đây là giải pháp điều trị cuối cùng cho các bệnh nhân mắc đồng thời bệnh tim và bệnh phổi giai đoạn cuối, khi tất cả các phương pháp điều trị khác không còn hiệu quả.

Tiến sĩ, bác sĩ Dương Đức Hùng, Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức chia sẻ về ca phẫu thuật ghép tim-phổi lần đầu tiên thành công tại Việt Nam.

Trên thế giới, ghép khối tim-phổi được thực hiện rất ít do yêu cầu nguồn tạng hiếm, quy trình phẫu thuật phức tạp và nguy cơ biến chứng cao; được chỉ định cho những trường hợp mắc đồng thời bệnh tim và bệnh phổi giai đoạn cuối khi tất cả các phương pháp điều trị khác không còn hiệu quả.

Các tình huống thường gặp gồm: bệnh tim bẩm sinh phức tạp kèm tăng áp động mạch phổi kiểu Eisenmenger; tăng áp động mạch phổi nặng đã gây suy tim phải không hồi phục; hoặc bệnh phổi giai đoạn cuối kèm bệnh tim trái không thể sửa chữa. Do yêu cầu nguồn tạng hiếm và kỹ thuật cực kỳ phức tạp, mỗi năm toàn thế giới chỉ thực hiện khoảng 100 ca ghép loại này.

Nhờ những tiến bộ về phẫu thuật, hồi sức và chăm sóc sau ghép, kết quả ghép khối tim-phổi đã được cải thiện rõ rệt. Tại Anh, tỷ lệ sống sau 90 ngày đạt khoảng 85% và sau 1 năm là 72%. Tại Mỹ, một số trung tâm hàng đầu như Stanford Health Care ghi nhận tỷ lệ sống 1 năm sau ghép tới gần 90%, cao hơn mức trung bình toàn quốc. Nhiều báo cáo quốc tế cho thấy tỷ lệ sống 5 năm sau ghép hiện đạt khoảng 60%, minh chứng cho hiệu quả của phương pháp này trong kéo dài và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.

Thành công của ca ghép đồng thời tim-phổi không chỉ đánh dấu bước tiến vượt bậc trong năng lực ghép tạng, đặc biệt là ghép đa tạng, mà còn khẳng định trình độ chuyên môn của đội ngũ y tế Việt Nam trong lĩnh vực ngoại khoa. Thành tựu này mở ra cơ hội sống và hướng điều trị mới cho những bệnh nhân mắc bệnh tim-phổi giai đoạn cuối.

Tiến sĩ, bác sĩ Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) đánh giá cao sự xuất sắc và tiến bộ vượt bậc trong chuyên môn ghép tạng của Việt Nam. Đây là ca ghép tim-phổi thứ 2 tại Việt Nam nhưng là ca ghép tim-phổi đầu tiên thành công.

Tiến sĩ, bác sĩ Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) phát biểu.

“Dù Việt Nam đi sau nhiều năm so với thế giới nhưng hiện nay chúng ta tự tin sánh ngang với các cường quốc năm châu về ghép tạng. Trình độ của đội ngũ cán bộ, hiệp đồng tác chiến, ý chí quyết tâm của các bác sĩ đã làm nên thành công này”, ông Hà Anh Đức nói.

Thực hiện số lượng ghép và lấy đa tạng cao nhất từ trước đến nay

Trong năm 2025, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã thực hiện số lượng trường hợp lấy và ghép đa tạng từ người hiến chết não cao nhất từ trước đến nay.

Từ cuối năm 2023 và đặc biệt là trong năm 2025 đã có sự tăng đột biến về số lượng người hiến chết não. Tính từ tháng 8/2024 đến 8/2025, bệnh viện đã vận động được hơn 50 trường hợp chấn thương sọ não nặng đồng ý hiến tạng, thực hiện lấy đa tạng từ 34 trường hợp hiến chết não.

Dự kiến 1-2 tuần nữa, bệnh nhân có thể ra viện.

Đặc biệt có những tuần bệnh viện đã thực hiện lấy đa tạng từ người hiến chết não để ghép cho loạt bệnh nhân nhận tim, nhận gan, nhận thận và thậm chí có bệnh nhân nhận 2 tạng cùng lúc (là trường hợp bệnh nhân ghép tim và gan đồng thời, tim và phổi đồng thời, gan và thận đồng thời).

Tính đến 12/8/2025, đã có 2.478 trường hợp (gồm ghép tim, phổi, gan, thận) được ghép tạng từ người hiến sống và chết não tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, trong đó, có 109 ca ghép tim, 8 ca ghép phổi, 144 ca ghép gan từ người hiến chết não, 25 người ghép gan từ người hiến sống, 1.960 ca ghép thận sống, 232 ca ghép thận từ người hiến chết não.

Số lượng hiến mô, tạng sau chết não đến ngày 12/8/2025 tại bệnh viện là 150 trường hợp.

Trong 1 năm nay, từ tháng 8/2024 đến 8/2025, bệnh viện ghi nhận số trường hợp đồng ý hiến tạng chết não tăng kỷ lục, vì vậy số lượng trường hợp lấy đa tạng sau khi hồi sức và chẩn đoán chết não cao nhất từ trước đến nay.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Hai bệnh viện phối hợp cứu sống bệnh nhân ngừng tim 60 phút

Sự phối hợp “thần tốc” giữa Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc và Bệnh viện Bạch Mai lập kỳ tích cứu sống bệnh nhân ngừng tim 60 phút trong tình trạng sốc tim nguy kịch.

Bệnh nhân hồi sinh kỳ tích dù đã bị ngừng tuần hoàn 60 phút.

Bệnh nhân nữ, 47 tuổi, tiền sử u lành tính tuyến vú phải đã được phẫu thuật, chưa phát hiện bệnh lý tim mạch mạn tính. Bệnh nhân vào Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc do cơn đau ngực trái cấp tính khởi phát 4 giờ trước.

Tại đây, người bệnh được chẩn đoán: Nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên (STEMI) giờ thứ 4 – một cấp cứu tim mạch với nguy cơ tử vong cao nếu không được xử trí kịp thời. Bệnh nhân được chụp mạch vành qua da cấp cứu, phát hiện tắc hoàn toàn động mạch liên thất trước (LAD) và tiến hành can thiệp đặt stent động mạch vành, dòng chảy sau can thiệp tốt.

Sau can thiệp, người bệnh được chuyển về bệnh phòng tiếp tục theo dõi sát. Trong lúc đang được theo dõi sau can thiệp, bệnh nhân đột ngột xuất hiện mất ý thức, trên máy theo dõi là hình ảnh rung thất – Rối loạn nhịp nguy kịch gây ngừng tuần hoàn.

Người bệnh được hồi sức tim phổi, ép tim ngoài lồng ngực, sốc điện nhiều lần với tổng thời gian ngừng tim phải tiến hành cấp cứu ngừng tuần hoàn 60 phút. Sau những nỗ lực không biết mệt mỏi, người bệnh có mạch trở lại. Tuy nhiên, bệnh nhân rơi vào tình trạng sốc tim rất nặng, chức năng tim giảm nhiều, huyết áp tụt sâu, phải dùng ba loại vận mạch liều cao, nguy cơ tử vong rất cao.

Ngay lập tức, Bệnh viện đa khoa Vĩnh Phúc đã kêu gọi sự hỗ trợ từ Bệnh viện Bạch Mai. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt và thần tốc của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Xuân Cơ – Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, chỉ sau 1,5 giờ nhận được yêu cầu hỗ trợ từ Vĩnh Phúc, một ê-kip chuyên gia ECMO tinh nhuệ đã có mặt tại chỗ.

Ê-kíp bao gồm bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Bá Cường, Trung tâm Hồi sức Tích cực; Thạc sĩ, bác sĩ Hoàng Tuấn Phong và Thạc sĩ, bác sĩ Võ Duy Văn – Viện Tim mạch Quốc gia. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng giữa 2 bệnh viện, hệ thống ECMO đã nhanh chóng được thiết lập ngay tại Vĩnh Phúc, kịp thời thay thế chức năng tim-phổi suy yếu của bệnh nhân, giành giật sự sống từ tay tử thần.

Sau khi được ECMO hỗ trợ, bệnh nhân được chuyển về Trung tâm Hồi sức tích cực,Bệnh viện Bạch Mai để tiếp tục cuộc chiến giành lại sự sống từ tay tử thần.

Tại đây, dưới sự điều trị tận tâm của bác sĩ Hồ Đức Triều và ê-kíp Hồi sức tích cực, cùng sự phối hợp đa chuyên khoa chặt chẽ (Tim mạch, Dược lâm sàng, Dinh dưỡng, Phục hồi chức năng), bệnh nhân đã vượt qua những giai đoạn nguy kịch, ngàn cân treo sợi tóc như sốc tim trầm trọng và nhiễm khuẩn nặng.

Nhờ tinh thần trách nhiệm cao, sự phối hợp chuyên môn nhịp nhàng và tinh thần không bỏ cuộc, người bệnh đã có những chuyển biến tích cực. Sau 4 ngày điều trị, bệnh nhân được rút ECMO thành công. Sau 14 ngày điều trị tích cực, bệnh nhân đã hồi phục tốt, chức năng tim cải thiện rõ rệt và đủ điều kiện xuất viện.

Thành công này không chỉ là một kỳ tích đơn lẻ mà còn là một bước đi chiến lược, như Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Xuân Cơ – Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai đã khẳng định: “Hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới triển khai thành công kỹ thuật cao như ECMO không đơn thuần là giải quyết một ca bệnh khó. Đó là nhiệm vụ chiến lược nhằm từng bước nâng cao năng lực chuyên môn cho y tế địa phương, giúp người dân được tiếp cận dịch vụ kỹ thuật cao ngay tại tuyến tỉnh, giảm tải cho bệnh viện tuyến trên và giảm nguy cơ cho người bệnh khi phải vận chuyển xa”.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Rủi ro khó lường vì chọn ngày giờ tốt cho con chào đời bằng sinh mổ

Một trẻ sơ sinh 2 ngày tuổi, được mổ lấy thai ở tuần 37 theo yêu cầu của gia đình để “chọn ngày giờ đẹp” đã không thể qua khỏi. Đây là một trường hợp đau lòng vừa được ghi nhận tại Trung tâm Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Trung ương.

Bệnh nhi được tích cực cứu chữa tại Trung tâm Sơ sinh, Bệnh viện Nhi Trung ương nhưng không qua khỏi.

Ngay sau sinh, trẻ có biểu hiện suy hô hấp, phải thở oxy và chuyển viện khẩn cấp. Khi đến Trung tâm Sơ sinh, trẻ đã trong tình trạng tím tái, suy tuần hoàn nghiêm trọng và được chẩn đoán tăng áp lực động mạch phổi nặng.

Mặc dù được hồi sức tích cực, sử dụng các kỹ thuật cao như thở máy, dùng surfactant, thở iNO, trẻ vẫn không đáp ứng với các biện pháp điều trị và không qua khỏi.

Trên thực tế, thời gian qua các bác sĩ ghi nhận không ít trường hợp tương tự, trẻ sơ sinh rơi vào tình trạng nguy kịch sau khi được sinh mổ chưa có chuyển dạ, vì gia đình mong muốn “ngày giờ đẹp”.

Theo báo cáo tổng kết công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em của Bộ Y tế năm 2022, tỷ lệ sinh mổ chiếm gần 37% tổng số ca sinh, có một số bệnh viện lên đến 50-60% – cao hơn nhiều lần so với mức 10-15% mà Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo để bảo vệ sức khỏe của mẹ và trẻ sơ sinh nhằm hạn chế các biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.

Hiện nay, tỷ lệ sinh mổ tăng do nhiều nguyên nhân, trong đó phổ biến là việc các gia đình chủ động lựa chọn ngày, giờ sinh. Bên cạnh đó, những ca chuyển dạ có nguy cơ cao thường được bác sĩ chỉ định mổ để bảo đảm an toàn cho mẹ và bé,…

Các chuyên gia y tế cảnh báo, sinh mổ tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với sinh thường, gây lo ngại về sức khỏe lâu dài cho cả mẹ và bé.

Sinh thường (sinh qua đường âm đạo) vẫn là phương pháp tự nhiên và an toàn nhất cho cả mẹ và bé. Hình thức sinh này mang lại nhiều lợi ích thiết thực như giúp mẹ phục hồi nhanh hơn, giảm nguy cơ mất máu, viêm nhiễm hậu sản, tiết sữa sớm và tiết kiệm chi phí. Đặc biệt, sinh thường còn giúp mẹ cảm nhận trọn vẹn hành trình “vượt cạn” một cách thiêng liêng và ý nghĩa.

Với em bé, sinh thường hỗ trợ quá trình thích nghi với môi trường bên ngoài tốt hơn. Nhờ áp lực co bóp khi chuyển dạ, chất nhầy trong phổi và đường hô hấp được đẩy ra, giảm nguy cơ suy hô hấp. Trẻ được tiếp xúc với hệ vi sinh có lợi từ đường âm đạo của mẹ, giúp phát triển hệ miễn dịch và hệ tiêu hóa.

Ngoài ra, trẻ sinh thường dễ thực hiện da kề da và bú mẹ sớm ngay tại phòng sinh, từ đó tăng cường gắn kết tình cảm và hỗ trợ phát triển thể chất, cảm xúc ngay từ những giờ đầu đời.

Bác sĩ khuyến cáo, sức khỏe và sự an toàn của mẹ và bé luôn là ưu tiên hàng đầu. Do đó, mổ lấy thai chỉ nên thực hiện khi có chỉ định y khoa rõ ràng. Thay vì lo lắng chọn giờ sinh hay phương pháp can thiệp không cần thiết, mẹ bầu nên chủ động theo dõi thai kỳ định kỳ và lựa chọn cơ sở y tế uy tín với đội ngũ bác sĩ giàu kinh nghiệm. Đây là bước chuẩn bị quan trọng để hành trình sinh nở diễn ra an toàn, suôn sẻ, mang đến một khởi đầu mạnh khỏe và trọn vẹn cho con yêu.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Chạy đua với thời gian bảo toàn tính mạng cho sản phụ ung thư sinh con khỏe mạnh

Bệnh viện Phụ sản Trung ương vừa phẫu thuật thành công cho sản phụ 29 tuổi, quê Hải Phòng, mắc ung thư cổ tử cung giai đoạn IB3 khi đang mang thai ở tuần thứ 22. Đây là một ca bệnh hiếm gặp và vô cùng phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa chuyên môn sản khoa, ung thư phụ khoa, gây mê hồi sức và hồi sức sơ sinh.

Các bác sĩ phẫu thuật bảo toàn tính mạng cho cả mẹ và con.

Mang thai lần 2, chị N.T.L bất ngờ phát hiện ra máu âm đạo và đi khám. Kết quả chẩn đoán ung thư cổ tử cung giai đoạn IB3, khối sùi 4x5cm khiến chị gần như sụp đổ.

Sau hội chẩn liên khoa tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, các chuyên gia đã quyết định áp dụng phác đồ hoá chất 4 chu kỳ ngay trong thai kỳ, nhằm vừa kiểm soát bệnh ung thư, vừa hạn chế tối đa ảnh hưởng đến thai nhi.

Trước khi điều trị, chị L. không giấu được nỗi lo rằng hóa chất sẽ gây hại cho con. Tuy nhiên, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Văn Thắng, Trưởng khoa Phụ Ung thư – nơi chị L. điều trị bệnh cho biết, theo các nghiên cứu và khuyến cáo mới nhất, hoá chất khi được lựa chọn hợp lý sẽ không gây dị dạng thai và vẫn giúp khống chế được bệnh ung thư. Với trường hợp này, mục tiêu của chúng tôi là kiểm soát khối u, đồng thời đưa thai đến giai đoạn có thể nuôi sống được, để cứu cả mẹ và con.

Đến tuần 33, chị L. rỉ ối và được nhập viện theo dõi, tiêm trưởng thành phổi cho thai nhi. Ba tuần sau kết thúc hoá trị, ê-kíp tiến hành mổ lấy thai và phẫu thuật cắt tử cung triệt căn, vét hạch chậu hai bên trong cùng một thì. Chiều ngày 7/8/2025 bé trai nặng 1.900g chào đời khoẻ mạnh, cất tiếng khóc đầu tiên trong niềm vỡ oà của cả gia đình và ekip mổ.

“Khoảnh khắc nghe con khóc, tôi thấy mọi đau đớn, sợ hãi tan biến. Tôi đã khóc rất nhiều vì hạnh phúc và biết ơn các bác sĩ đã tạo kỳ tích cho hai mẹ con tôi”, chị L. chia sẻ.

Trong quá trình phẫu thuật, ê-kíp gặp nhiều khó khăn. Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Văn Thắng – người trực tiếp thực hiện ca mổ chia sẻ: “Bệnh nhân vừa trải qua hóa trị, lại phải phẫu thuật lấy thai và cắt tử cung triệt căn ngay sau đó, nên nguy cơ mất máu, tổn thương niệu quản, bàng quang, mạch máu rất lớn. Chúng tôi phải vừa bảo đảm an toàn cho mẹ, vừa bảo vệ tính mạng và sức khoẻ của bé. Đây thực sự là một cuộc chạy đua với thời gian”.

Khối u sau mổ được gửi giải phẫu mẫu bệnh để quyết định điều trị bổ trợ nếu cần

Các chuyên gia khuyến cáo, ung thư cổ tử cung khi đang mang thai không đồng nghĩa với việc phải chấm dứt thai kỳ. Nếu được chẩn đoán sớm và áp dụng phác đồ phù hợp, người bệnh có thể kiểm soát bệnh và giữ thai đến khi đủ tháng. Hóa trị trong thai kỳ, nếu đúng chỉ định, không làm bệnh tiến triển nặng hơn và giúp duy trì sự sống cho thai nhi.

Nguồn: nhandan.vn

Exit mobile version