Danh mục: Tin Tức Y Dược
Tin Tức Y Dược
Mưa bão, lũ lụt không chỉ gây thiệt hại về tài sản và giao thông mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Các chuyên gia cảnh báo, việc chủ động kiểm soát nhiễm khuẩn trong và sau bão, lũ là yếu tố then chốt để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Nước lũ cùng với úng ngập dài ngày mang theo nhiều vi sinh vật, rác bẩn và chất thải có thể dẫn đến sự bùng phát của các bệnh truyền nhiễm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Những điều kiện ẩm ướt và nước ngập cũng tạo cơ hội thuận lợi cho các loại vi khuẩn, virus và côn trùng truyền bệnh phát triển, đặc biệt là bệnh do muỗi.
Để bảo vệ sức khỏe bản thân và cộng đồng trong thời kỳ này, việc áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh là hết sức cần thiết. Những hướng dẫn sau đây sẽ cung cấp chi tiết về các biện pháp vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường và phòng tránh bệnh do muỗi đốt, nhằm giúp mỗi cá nhân và gia đình có thể chủ động bảo vệ sức khỏe của mình trong mùa mưa bão.
Theo Cục Phòng bệnh (Bộ Y tế), sau mưa lũ, tại những vùng bị thiên tai lũ lụt, nguồn nước thường bị bẩn, ô nhiễm do các chất thải từ cống rãnh, bùn đất, xác động vật chết… lẫn vào nước nước sông, suối, ao hồ.
Tại các khu vực bị ngập nước, các nguồn nước, công trình cấp, thoát nước, công trình vệ sinh bị phá hủy khiến tình trạng thiếu nước sạch sinh hoạt càng trở nên nghiêm trọng.
Nguồn nước nhiễm bẩn khiến vi khuẩn, vi-rút và ký sinh trùng có điều kiện sinh sôi, phát, dẫn đến lan truyền mầm bệnh. Các bệnh dễ mắc phải như bệnh về da (mẩn ngứa, mụn nhọt, nấm chân tay, nước ăn chân, ghẻ lở, viêm da, viêm nang lông,…), các bệnh về đường ruột và đường tiêu hóa (tiêu chảy, tả, thương hàn), các bệnh về mắt (đau mắt đỏ, mắt hột), bệnh phụ khoa do tắm nước bẩn…
Để có nguồn nước sinh hoạt an toàn sau mưa lũ, bảo đảm sức khỏe và phòng tránh các dịch bệnh xảy ra Cục Phòng bệnh hướng dẫn người dân các biện pháp làm sạch nước như sau:
Lưu ý: Nước đã được khử trùng có thể sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Tuy nhiên nước này vẫn phải đun sôi rồi mới uống trực tiếp được; Không tiến hành khử trùng đồng thời với đánh phèn vì phèn làm mất tác dụng khử trùng của Clo. Sau khi khử trùng ngửi thấy mùi Clo thì việc khử trùng mới có tác dụng; Nếu lỡ cho quá nhiều Clo thì mở nắp, chờ thêm nửa giờ hoặc một giờ nữa cho bớt mùi nồng.
Bộ Y tế khuyến cáo: Tại các vùng ngập lụt sau bão, người dân cần thau rửa và khử trùng bể, dụng cụ chứa nước sinh hoạt bằng các chế phẩm khử khuẩn đã được Bộ Y tế cấp phép, nhằm bảo đảm nguồn nước an toàn và phòng ngừa dịch bệnh.
Các chuyên gia y tế khuyến cáo mỗi người dân cần chủ động phòng bệnh bằng cách giữ gìn vệ sinh cá nhân, tránh tai nạn trong quá trình dọn dẹp sau bão, đảm bảo nước uống được đun sôi hoặc xử lý bằng Cloramin B, viên Aquat hoặc các chế phẩm khử khuẩn do ngành y tế hướng dẫn.
Nếu xuất hiện triệu chứng nghi ngờ mắc bệnh, cần báo ngay cho cơ sở y tế hoặc chính quyền để được hỗ trợ kịp thời, tránh lây lan trong cộng đồng.
Nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng các chính sách kiểm soát thuốc lá dựa trên bằng chứng khoa học và theo hướng dẫn của Công ước Khung về Kiểm soát thuốc lá. Qua đó giúp giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá trên toàn cầu, đồng nghĩa với việc cứu sống hàng triệu người khỏi bệnh tật và tử vong sớm do hút thuốc lá.
Ngày càng nhiều các tổ chức, cá nhân tích cực hưởng ứng phong trào xây dựng môi trường không khói thuốc.
Kết quả phòng chống tác hại của thuốc lá trên toàn thế giới được đánh giá là một trong những thành tựu nổi bật của lĩnh vực y tế công cộng. Khoảng 5,6 tỷ người (71% dân số thế giới) đang được bảo vệ bởi ít nhất một chính sách kiểm soát thuốc lá theo Công ước Khung về Kiểm soát thuốc lá (FCTC). Các tổ chức quốc tế uy tín đã đóng góp tích cực, sáng tạo và bền bỉ trong hợp tác với các quốc gia để thực thi các can thiệp hiệu quả.
Tại hội nghị toàn cầu phòng chống tác hại của thuốc lá, các đại biểu đều nhất trí cho rằng dù đã đạt được nhiều tiến bộ, công tác kiểm soát thuốc lá vẫn còn nhiều việc cần thúc đẩy. Việc áp dụng các chính sách y tế công cộng vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Ở một số quốc gia, ngành công nghiệp thuốc lá đã sử dụng nhiều hình thức tiếp thị tinh vi như quảng bá trên mạng xã hội, sản phẩm có hương vị hấp dẫn và định vị thương hiệu nhằm thu hút giới trẻ – đặc biệt tại khu vực gần trường học.
Đầu tư vào kiểm soát thuốc lá mang lại lợi ích rõ rệt: Bảo vệ sức khỏe, giảm chi phí y tế, tăng thu ngân sách từ thuế thuốc lá và nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng. Trong bối cảnh ngân sách y tế eo hẹp, đây là giải pháp hợp lý, bền vững – điều kiện tiên quyết là cần có quyết tâm chính trị và sự phối hợp liên ngành mạnh mẽ.
Tại nước ta, với sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, công tác phòng chống tác hại của thuốc lá đạt được nhiều kết quả nổi bật. Chia sẻ bài học kinh nghiệm với bạn bè quốc tế, bà Phan Thị Hải, Phó Giám đốc Quỹ Phòng chống tác hại của thuốc lá (Bộ Y tế) cho rằng, sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong công cuộc phòng chống tác hại của thuốc lá là một trong những yếu tố quan trọng.
Việt Nam đã ban hành Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá (năm 2012) và thành lập Quỹ Phòng chống tác hại thuốc lá (năm 2013). Quỹ được hình thành từ đóng góp bắt buộc của các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu thuốc lá.
Bên cạnh cơ chế tài chính, mô hình quản lý Quỹ cũng được đánh giá cao nhờ tính đa ngành, minh bạch và dựa trên bằng chứng. Quỹ do Bộ Y tế chủ trì và có sự tham gia của nhiều bộ, ngành, hoạt động theo nguyên tắc cấp kinh phí dựa trên kết quả đầu ra. Các quy trình lựa chọn, lập kế hoạch, giám sát và đánh giá đều được thực hiện công khai, khoa học, với các chương trình được xây dựng và triển khai dựa trên dữ liệu tin cậy và bằng chứng thực tiễn.
Nhờ đó, tỷ lệ hút thuốc ở người trưởng thành giảm từ 23,8% (năm 2010) xuống 20,8% (năm 2021); tỷ lệ tiếp xúc với khói thuốc thụ động cũng giảm mạnh, từ 73,1% năm 2010 xuống 45,6% năm 2021; tháng 11/2024, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 173/2024/QH15 quy định “Cấm sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, chứa chấp, vận chuyển, sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, các loại khí, chất gây nghiện, gây tác hại cho sức khỏe con người từ năm 2025”.
Tháng 6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), bao gồm việc áp dụng hệ thống thuế tiêu thụ đặc biệt hỗn hợp từ năm 2027, với lộ trình tăng thuế thuốc lá liên tục đến năm 2031 với mục tiêu giúp giảm tỷ lệ sử dụng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Đại diện Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam khẳng định, bằng chứng từ khắp nơi trên thế giới cho thấy can thiệp hiệu quả và ít chi phí nhất để giảm sử dụng thuốc lá chính là thông qua tăng thuế và giá. Thuế cao hơn và do đó giá cao hơn sẽ khuyến khích những người hút thuốc bỏ thuốc lá và ngăn ngừa những người trẻ tuổi bắt đầu.
Thuế thuốc lá giống như một loại vaccine chống lại tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe của thanh thiếu niên bằng cách ngăn chặn họ bắt đầu hút thuốc, chúng ta đang giúp bảo vệ họ khỏi những rủi ro của việc sử dụng thuốc lá suốt đời. Cải cách thuế sẽ đạt được lợi ích cùng thắng bằng cách giảm tiêu thụ thuốc lá và do đó giảm các tác hại từ thuốc lá đối với sức khỏe người dân, đồng thời giúp tăng nguồn thu ngân sách từ thuế thuốc lá để đầu tư cho các ưu tiên chính của Chính phủ.
(Nguồn: nhandan.vn)
Một trong những mục tiêu được Nghị quyết số 72/NQ-TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân nêu rõ là đến năm 2030, người dân được miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế theo lộ trình.
Triển khai miễn viện phí toàn dân sẽ giúp người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ khám, chữa bệnh.
Hiện Bộ Y tế đang khẩn trương xây dựng Đề án để triển khai chính sách nhân văn này từ năm 2026.
Trao đổi thông tin với báo chí, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cho biết, Nghị quyết số 72-NQ/TW tiếp tục thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với sức khỏe người dân, hướng đến mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, nơi mọi người đều được chăm sóc y tế, sống lâu, sống khỏe, sống lành mạnh; đồng thời nâng cao thể chất, ý thức bảo vệ sức khỏe và chủ động phòng ngừa bệnh tật trong toàn xã hội. Một trong những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 72-NQ/TW là đẩy mạnh cải cách tài chính y tế và phát triển chính sách bảo hiểm y tế bền vững, hiệu quả, làm cơ sở tiến tới miễn viện phí cho người dân.
Miễn viện phí ở mức cơ bản cho toàn dân được thực hiện thông qua bảo hiểm y tế và bắt đầu triển khai từ năm 2026 và đạt mục tiêu vào năm 2030 là một chủ trương nhân văn, thể hiện tính ưu việt của chế độ, có ý nghĩa an sinh xã hội sâu sắc. Chính sách này sẽ giúp phát hiện sớm bệnh tật, giảm chi phí y tế, đồng thời khẳng định rõ quan điểm: người dân là trung tâm và được ưu tiên hàng đầu trong xây dựng, thực hiện các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Do đó, Bộ Y tế đang khẩn trương xây dựng các nội dung liên quan đề án.
Chính sách miễn viện phí dựa trên nền tảng trụ cột là bảo hiểm y tế và được thực hiện theo lộ trình. Nhà nước và quỹ bảo hiểm y tế sẽ chi trả các chi phí y tế cơ bản, thiết yếu, qua đó giảm đáng kể gánh nặng tài chính cho người dân – trước hết là nhóm chính sách xã hội, người yếu thế, người có thu nhập thấp và một số đối tượng ưu tiên khác.
Đối với dịch vụ y tế theo yêu cầu, vượt mức cơ bản, người bệnh vẫn phải tự chi trả nhằm nâng cao ý thức sử dụng dịch vụ hợp lý và tiết kiệm chi phí. Chính sách miễn viện phí vì vậy phải gắn chặt với mục tiêu bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân. Mọi người đều cần tham gia bảo hiểm y tế để chia sẻ rủi ro, người có điều kiện hỗ trợ người nghèo, người khỏe giúp người yếu, cùng với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, để khi không may mắc bệnh người dân không phải trả thêm chi phí. Về phạm vi quyền lợi, người dân được khám sức khỏe định kỳ hoặc khám sàng lọc miễn phí ít nhất mỗi năm một lần và lập sổ sức khỏe điện tử, quản lý bệnh tật theo vòng đời.
Chính sách này bắt đầu triển khai từ năm 2026, từng bước thực hiện tăng tỷ lệ, mức thanh toán, chi cho phòng bệnh, chẩn đoán, điều trị sớm một số bệnh và đối tượng ưu tiên theo lộ trình từ Quỹ Bảo hiểm y tế để giảm gánh nặng tài chính cho người bệnh, phù hợp với việc tăng mức đóng bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật từ năm 2027. Ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả cho một số dịch vụ phòng bệnh, quản lý bệnh mạn tính, khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc theo yêu cầu chuyên môn tại cấp khám bệnh, chữa bệnh ban đầu, cơ bản theo lộ trình phù hợp nhằm ngăn ngừa bệnh tật, giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, tiết kiệm chi phí điều trị cho người dân. Mục tiêu cuối cùng là bảo đảm mọi người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế thiết yếu, cơ bản mà không phải lo lắng về tài chính.
Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai bốn nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 16/9, trong báo cáo chuyên đề về Nghị quyết số 72-NQ/TW, Phó Thủ tướng Lê Thành Long khẳng định Chính phủ đã tính toán kỹ, đủ khả năng cân đối ngân sách để thực hiện lộ trình miễn viện phí cơ bản trong phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế. Kinh phí khám sức khỏe định kỳ cho khoảng 100 triệu dân ước tính 30.000 tỷ đồng, trong đó người sử dụng lao động chi khoảng 5.000 tỷ đồng, phần còn lại do ngân sách chi trả. Phó Thủ tướng cũng khẳng định Nhà nước đủ khả năng cân đối trong giai đoạn đầu và có giải pháp lâu dài.
Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan cũng lưu ý, Nghị quyết không đặt mục tiêu “miễn phí tuyệt đối”, mà hướng đến giảm tối đa chi phí đồng chi trả của người dân, tăng độ bao phủ bảo hiểm y tế, giảm tử vong do phát hiện bệnh muộn và xây dựng hệ thống y tế công bằng, bình đẳng, hiệu quả, bền vững và không ai bị bỏ lại phía sau; bảo đảm mọi người dân đều có quyền tiếp cận dịch vụ y tế mà không phải lo lắng về chi phí.
Chia sẻ về chủ trương miễn viện phí toàn dân, đại diện các cơ sở y tế đều cho rằng, đây có thể coi là một “tuyên ngôn” về chiến lược chăm sóc sức khỏe nhân dân, chuyển từ bị động chữa bệnh sang chủ động phòng bệnh và phát hiện sớm bệnh tật – một định hướng có ý nghĩa to lớn. Thực hiện được điều này sẽ là một bước tiến quan trọng trong công tác an sinh xã hội. Với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và một lộ trình bài bản, chủ trương này sẽ được thực hiện thành công, mang lại lợi ích thiết thực cho mọi người dân.
Tiến sĩ Hà Anh Đức, Cục trưởng Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), cho biết các đơn vị liên quan đang tập trung xây dựng đề án trong đó quy định rõ nội dung cũng như danh mục xét nghiệm và cận lâm sàng cần thiết. Mục tiêu là thiết kế gói khám hiệu quả, tiết kiệm chi phí nhưng vẫn bảo đảm chất lượng, đồng thời tạo điều kiện để mọi người dân đều có cơ hội kiểm tra sức khỏe thường xuyên. Để nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, Bộ Y tế cũng sẽ đầu tư đồng bộ về nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị cho y tế cơ sở.
Theo thống kê của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, bình quân Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả từ 87 đến 89% tổng chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế và người tham gia có trách nhiệm đồng chi trả 11-13%. Như vậy, nếu thực hiện được việc miễn viện phí sẽ góp phần xóa bỏ gánh nặng tài chính, giúp người dân được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản.
Như vậy, việc thực hiện miễn viện phí toàn dân là bước ngoặt quan trọng, tạo sự thay đổi từ chữa bệnh sang chăm sóc ban đầu; đồng thời khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc nâng cao chất lượng sống của nhân dân, vì một Việt Nam khỏe mạnh, văn minh và thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
(Nguồn: nhandan.vn)
Ngày 16/10/2025, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) tổ chức khởi động Hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám bệnh để hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu và công cụ quản lý người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Cục Quản lý khám, chữa bệnh khởi động Hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám bệnh, chữa bệnh
Chia sẻ tại lễ khởi động, Tiến sĩ Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh cho biết: Dự án xây dựng, cập nhật Hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám bệnh góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu và công cụ quản lý người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại Nghị quyết số 71/NQ-CP của Chính phủ ngày 1/4/2025, kế hoạch số 02-KH/BCĐTW ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số về thúc đẩy chuyển đổi số liên thông, đồng bộ, nhanh, hiệu quả đáp ứng yêu cầu sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và quy định tại Quyết định số 463/QĐ-BYT ngày 18/3/2024 của Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022- 2025, tầm nhìn đến năm 2030 của Bộ Y tế.
TS Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh, Bộ Y tế thông tin tại chương trình
Hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám bệnh, chữa bệnh có 4 tính năng chính: Theo dõi toàn bộ quá trình từ đào tạo, cấp phép đến quản lý hành nghề liên tục; Quản lý cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, từ khi cấp phép hoạt động, điều chỉnh thông tin, dừng hoạt động; Kết nối các thủ tục hành chính với Cổng dịch vụ công của Bộ Y tế, dịch vụ công quốc gia và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác, đảm bảo dữ liệu được đồng bộ và liên thông giữa các đơn vị; Cung cấp các báo cáo chuyên sâu và theo dõi các chỉ số về nhân lực, tình trạng cấp phép, và hiệu suất xử lý hồ sơ theo thời gian thực.
Dự kiến, đến cuối năm 2025, khoảng 850.000 người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh trên cả nước sẽ được quản lý hành nghề tập trung; dự kiến căn cước công dân cũng sẽ là giấy phép hành nghề của mỗi cá nhân.
Hệ thống được phát triển với mục tiêu triển khai nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu và công cụ quản lý người hành nghề cũng như cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Sau khi hoàn thiện, hệ thống sẽ đóng góp quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về hành nghề nói riêng cũng như hoạt động khám bệnh, chữa bệnh nói chung.
Dự thảo Chương trình hành động của Ban chấp hành Trung ương Đảng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nêu lên một số nhiệm vụ trong giai đoạn 2026-2030 về “Quản lý phát triển xã hội bền vững; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo đời sống nhân dân”.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trong chuyến khảo sát tại tỉnh Nghệ An
Thông tin bao gồm:
– Xây dựng, triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển.
– Tổ chức lại và nâng cao năng lực của hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng bảo đảm mọi người dân được tiếp cận thuận lợi và sử dụng hiệu quả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu.
– Xây dựng, phát triển một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ngang tầm khu vực và quốc tế; hình thành, phát triển các trung tâm y tế chuyên sâu hiện đại.
– Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế, sổ sức khỏe điện tử của người dân.
– Hiện đại hóa và nâng cao chất lượng công tác dự báo cung – cầu, quản lý lao động, việc làm và giao dịch việc làm dựa trên nền tảng số.
Công tác khám, chữa bệnh cho người dân luôn được quan tâm, chú trọng
Dự thảo cũng nêu lên 27 mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2026-2030, trong đó ngành Y tế được giao 5 mục tiêu:
1-Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh (tuổi): Xấp xỉ 75,5
2-Thời gian sống khỏe (năm): 68
3-Số bác sĩ/vạn dân (người): 19
4-Tỷ lệ người dân được hưởng chính sách khám sức khỏe hằng năm: 100%
5- Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế toàn dân (%): > 95%
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng nêu mục tiêu: Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả, bền vững; tập trung nâng cao chất lượng và kỹ năng trong công tác phòng bệnh, khám, chữa bệnh, kiểm soát tốt dịch bệnh.
Làm chủ nhiều công nghệ, kỹ thuật y học tiên tiến
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đang được lấy ý kiến nhân dân trong vòng 1 tháng (từ ngày 15/10 – 15/11/2025).
Tại phần đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và cơ đồ của đất nước sau 40 năm đổi mới trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng nêu rõ, trong nhiệm kỳ qua, việc phát triển văn hóa, con người và xã hội đạt kết quả rất quan trọng, nhiều mặt tiến bộ; an sinh xã hội và đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Chụp chiếu hình ảnh cho bệnh nhân tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh, BV Thanh Nhàn (Hà Nội). Ảnh: Thế Đại.
Trong đó, hệ thống y tế và công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có bước phát triển tích cực, chất lượng được nâng lên, kiểm soát tốt các loại dịch bệnh, làm chủ nhiều công nghệ, kỹ thuật y học tiên tiến.
Đã chú trọng thực hiện chế độ thông tuyến khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Y tế tư nhân tiếp tục phát triển. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,9% năm 2020 lên 95,2% năm 2025. Tuổi thọ và chỉ số sức khoẻ người dân bình quân của cả nước được cải thiện; năm 2025, tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh là 74,8 năm, số năm sống khoẻ khoảng 67 năm.
Đến năm 2030 cơ bản miễn viện phí toàn dân
Đặc biệt, Dự thảo Báo cáo chính trị cũng nêu lên mục tiêu cho giai đoạn mới, trong đó nhấn mạnh việc bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, an ninh xã hội và an ninh con người.
Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, hiện đại, thích ứng linh hoạt theo vòng đời và bao phủ toàn dân, toàn diện; lấy con người là trung tâm, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân.
Bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu có chất lượng; ưu tiên các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế và đối tượng trong khu vực phi chính thức; mở rộng tín dụng chính sách xã hội phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của Việt Nam, “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Đối với lĩnh vực y tế, Dự thảo Báo cáo chính trị cũng nêu rõ: Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả, bền vững; tập trung nâng cao chất lượng và kỹ năng trong công tác phòng bệnh, khám, chữa bệnh, kiểm soát tốt dịch bệnh. Triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khoẻ, dân số và phát triển.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả mạng lưới cung cấp dịch vụ y tế từ Trung ương đến cơ sở để đáp ứng với sự thay đổi của xu hướng bệnh tật và yêu cầu bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân; bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu có chất lượng và được khám sức khoẻ miễn phí ít nhất mỗi năm một lần.
Phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2030 cơ bản không còn hộ nghèo và cơ bản miễn viện phí toàn dân. Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, chế độ dinh dưỡng cho người dân, nhất là tại các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương; tăng cường kiểm soát, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Bên cạnh đó, bảo đảm mức sống của gia đình người có công từ mức trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Thực hiện bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; chăm sóc, bảo vệ người cao tuổi và trẻ em, nhất là trẻ em gái.
(Nguồn: suckhoedoisong.vn)
Các bác sĩ tại Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh (BV ĐHYD) đã làm chủ kỹ thuật thay van động mạch chủ qua ống thông (TAVI) – một trong những thành tựu đỉnh cao của tim mạch can thiệp hiện đại.
Chiến thắng “kẻ giết người thầm lặng” trong lồng ngực
Từ chỗ khó thở, đau ngực triền miên, ông T.V.C. (70 tuổi, ngụ thành phố Hồ Chí Minh) được bác sĩ chẩn đoán hẹp van động mạch chủ nặng. Sau khi được hội chẩn và chỉ định can thiệp TAVI tại BV ĐHYD, ông C. chia sẻ: “Tôi được gây tê, không gây mê, sau vài ngày là khỏe hẳn. Hết tức ngực, thở dễ hơn. Cảm giác như mình có thể sống thêm 20 năm.”
110 ca thay van động mạch chủ qua ống thông đã được thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM
Một bệnh nhân khác 68 tuổi bị hẹp van động mạch chủ kèm đái tháo đường, tăng huyết áp và bệnh thận mạn, nhập viện trong tình trạng suy kiệt. Sau ca TAVI kéo dài chưa đến một giờ, bệnh nhân hồi phục nhanh, đi lại bình thường chỉ sau ba ngày.
Ngày 16/10 trong chương trình kỷ niệm 100 ca thay van động mạch chủ qua ống thông (TAVI) tại bệnh viện, GS.TS.BS Trương Quang Bình – Chủ tịch Hội đồng khoa học BV ĐHYD cho biết, hẹp van động mạch chủ là một trong những bệnh lý tim phổ biến nhất ở người trên 70 tuổi, chiếm 3 đến 4% dân số tại các nước phát triển. Ở Việt Nam, ước tính có khoảng 100.000 – 150.000 người đang sống chung với bệnh.
“Điều đáng lo ngại là bệnh tiến triển âm thầm, triệu chứng ban đầu dễ bị nhầm với sự yếu đi do tuổi tác. Khi bệnh nhân xuất hiện đau ngực, ngất hay khó thở thì tim đã bị tổn thương nặng, nguy cơ tử vong trong vòng 2 đến 3 năm lên tới 70%” – GS Bình cảnh báo.
Phân tích nguyên nhân dẫn tới bệnh lý hẹp van động mạch chủ từ GS Bình chỉ ra, bệnh phần lớn là do quá trình lão hóa khiến van tim bị vôi hóa, xơ cứng, cản trở dòng máu ra khỏi tim. Một số trường hợp liên quan đến bệnh tim bẩm sinh, thấp tim hoặc viêm nội tâm mạc. Khi tim phải gắng sức bơm máu qua van bị hẹp, lâu ngày sẽ suy yếu, có thể dẫn đến đột tử. Thay van là giải pháp duy nhất giúp khôi phục chức năng tim.
Bước ngoặt của y học can thiệp tim mạch Việt Nam
Trước đây, phẫu thuật mở thay van động mạch chủ là phương pháp duy nhất nhưng tiềm ẩn rủi ro cao, đặc biệt với người lớn tuổi hoặc có nhiều bệnh nền. Kỹ thuật TAVI ra đời đã mở ra kỷ nguyên mới: không cần mở ngực, không gây mê toàn thân, van nhân tạo được đưa lên tim qua ống thông và bung ra đúng vị trí để thay thế van cũ.
TS.BS Vũ Hoàng Vũ – Trưởng khoa Tim mạch can thiệp BV ĐHYD cho biết, hầu hết bệnh nhân chỉ cần gây tê và tỉnh táo trong suốt quá trình can thiệp. “Sau thủ thuật, bệnh nhân đi lại được sau 1 đến 2 ngày và được xuất viện sau 3 đến 5 ngày. Nhờ giảm đau, ít mất máu và hạn chế biến chứng, TAVI trở thành lựa chọn hàng đầu cho nhóm bệnh nhân nguy cơ cao” – ông Vũ nói.
Các chuyên gia chia sẻ thông tin tại lễ kỷ niệm đánh dấu cột mốc thành công của kỹ thuật hiện đại
Tuy nhiên, kỹ thuật này vẫn có những rủi ro nhất định như chảy máu, rối loạn nhịp tim hay đột quỵ (hiếm ghi nhận). Nhờ quy trình kiểm soát nghiêm ngặt theo mô hình “Heart Team” – nhóm đa chuyên khoa gồm phẫu thuật viên tim, bác sĩ tim mạch can thiệp, gây mê, nội tim mạch và chẩn đoán hình ảnh – BV ĐHYD đạt tỷ lệ thành công tương đương các trung tâm hàng đầu thế giới.
TAVI đòi hỏi hệ thống trang thiết bị hiện đại và đội ngũ bác sĩ được đào tạo bài bản. PGS.TS.BS Cao Đằng Khang – Trưởng khoa Phẫu thuật tim mạch, cho biết việc lựa chọn giữa phẫu thuật mở và TAVI được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên tuổi, thể trạng và bệnh nền. Với bệnh nhân trẻ, kỳ vọng sống dài, phẫu thuật mở vẫn phù hợp hơn.
Một trong những thách thức lớn là chi phí vật tư van nhân tạo hiện còn cao, có thể lên tới vài trăm triệu đồng và chưa được bảo hiểm y tế chi trả toàn phần. Ngoài ra, việc duy trì đào tạo liên tục để bắt kịp các tiêu chuẩn quốc tế cũng là bài toán khó của các bệnh viện.
Từ nền tảng thành công, PGS.TS.BS Nguyễn Hoàng Định, Phó Giám đốc BV ĐHYD cho biết, bệnh viện đang hướng tới mục tiêu trở thành Trung tâm xuất sắc về van tim, nơi hội tụ đủ năng lực chuyên môn, công nghệ và mô hình điều trị toàn diện, từ chẩn đoán sớm đến phục hồi chức năng.
Theo các chuyên gia, với sự tiến bộ từ kỹ thuật TAVI, bệnh nhân tim mạch tại Việt Nam có thể tiếp cận phương pháp điều trị tiên tiến nhất thế giới mà không cần ra nước ngoài. Thành công của TAVI không chỉ cứu sống hàng trăm người mà còn khẳng định vị thế và bản lĩnh của y học Việt Nam trên hành trình hội nhập quốc tế.
(Nguồn: tienphong.vn)
Chuyên mục
