Danh mục: Tin Tức Y Dược
Tin Tức Y Dược
Trẻ em dân tộc thiểu số, miền núi và vùng khó khăn luôn đối mặt với nhiều nguy cơ nếu bữa ăn không đủ dinh dưỡng.
Nguy cơ từ việc không đảm bảo bữa ăn đủ dinh dưỡng
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, khi bữa ăn bổ sung của trẻ, đặc biệt là trẻ vùng cao, vùng dân tộc thiểu số không đảm bảo đủ dinh dưỡng sẽ kéo theo nhiều hệ lụy. Trước hết, trẻ dễ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi, nhẹ cân, chậm tăng trưởng chiều cao và cân nặng so với lứa tuổi.
Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng như sắt, kẽm, vitamin A, vitamin D… cũng phổ biến khiến trẻ giảm sức đề kháng, dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiêu chảy, viêm phổi và khó hồi phục sau khi ốm. Không chỉ ảnh hưởng đến thể chất, dinh dưỡng kém còn tác động trực tiếp đến sự phát triển trí não.
Trẻ thiếu dinh dưỡng thường chậm biết nói, kém tập trung, giảm khả năng tiếp thu, ảnh hưởng tới kết quả học tập, cơ hội phát triển. Sự thua thiệt này tạo ra khoảng cách về tầm vóc, trí tuệ giữa trẻ em vùng cao với trẻ ở khu vực thuận lợi, làm gia tăng bất bình đẳng trong phát triển con người.
Đáng lo ngại hơn, suy dinh dưỡng trẻ em góp phần duy trì vòng luẩn quẩn nghèo đói và bệnh tật khiến thế hệ tương lai khó có thể bứt phá.
Cán bộ Trạm Y tế xã Quảng Long cân, đo theo dõi thể trạng trẻ em. Ảnh: Hoài Minh
Nhiều chương trình phòng chống suy dinh dưỡng
Tại Quảng Ninh, theo số liệu thống kê đến tháng 6/2025, tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể cân nặng theo tuổi trên địa bàn tỉnh là 4,74%. Điều này cho thấy, tỉnh vẫn còn hàng nghìn trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi, nhẹ cân, tập trung chủ yếu ở các địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Quảng Ninh đã thực hiện chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em thông qua việc lồng ghép các đề án, chương trình. Chẳng hạn như: “Nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào DTTS và miền núi”, thực hiện đề án “Dân số và phát triển tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030”, đề án “Tuyên truyền, vận động cải thiện dinh dưỡng, thể lực cho trẻ em vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025”, dự án “Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người DTTS, phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em”…
Các cấp, ngành, đơn vị giáo dục và tổ chức đoàn thể đã triển khai nhiều hoạt động sáng tạo, thiết thực. Tiêu biểu như, tháng 7/2025, CDC Quảng Ninh tổ chức chiến dịch bổ sung vitamin A đợt 1 năm 2025, đặt mục tiêu ít nhất 98% trẻ từ 6 đến dưới 36 tháng tuổi được uống vitamin A. Trẻ từ 6 đến dưới 12 tháng tuổi uống 1 viên 100.000 IU, trẻ từ 12 đến dưới 36 tháng uống 1 viên 200.000 IU. Ngoài ra, trẻ từ 6 đến dưới 60 tháng mắc các bệnh như tiêu chảy kéo dài, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính hoặc suy dinh dưỡng cấp tính cũng được bổ sung vitamin A theo chỉ định của Bộ Y tế.
Tại Trường Mầm non Yên Than (xã Điền Xá), năm học 2025–2026 có 8 lớp với hơn 160 học sinh, trong đó 65% là trẻ dân tộc Sán Chỉ và Tày. Đời sống phụ huynh còn khó khăn nên giáo viên và học sinh tận dụng đất trống trong sân trường để trồng rau xanh. Những vườn rau sạch vừa giúp tiết kiệm chi phí, vừa đảm bảo thực phẩm rõ nguồn gốc cho bữa ăn bán trú. Nhà trường còn cử giáo viên đến từng hộ gia đình tuyên truyền về chế độ dinh dưỡng hợp lý. Thực đơn bữa trưa được xây dựng cân đối, phong phú dựa trên thực phẩm địa phương…
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Quảng Ninh cũng tích cực nhiều hoạt động hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng cho trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Qua những buổi tuyên truyền, chị em phụ nữ nuôi con nhỏ sẽ biết thêm về kiến thức, kỹ năng phòng, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em, chế độ dinh dưỡng từ thực đơn hằng ngày đảm bảo năng lượng và chất cho trẻ, cách chăm sóc sức khỏe, nuôi dưỡng cho trẻ em theo từng mùa và giai đoạn phát triển.
Tại xã Điền Xá, cán bộ Hội đến từng hộ gia đình có con nhỏ để hướng dẫn về chế độ dinh dưỡng theo mùa, theo độ tuổi; kêu gọi hỗ trợ sữa, thực phẩm cho trẻ khó khăn. Một số mô hình hiệu quả như “Câu lạc bộ chăm sóc – giáo dục trẻ thơ” tại xã Quảng Tân hay nhóm “Cha mẹ chăm sóc – giáo dục phát triển toàn diện trẻ thơ” (30 thành viên, sinh hoạt mỗi quý/lần) đã giúp nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi chăm sóc, dinh dưỡng cho trẻ. Đặc biệt, tại các thôn người Dao sinh sống, nội dung tuyên truyền còn được phiên dịch sang tiếng dân tộc, giúp bà con dễ hiểu, dễ áp dụng hơn góp phần tăng thêm hiệu quả tuyên truyền.
Các mô hình trường học xanh, bữa ăn bán trú đủ chất, kết hợp truyền thông dinh dưỡng đến từng hộ gia đình đã góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống cho trẻ em vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại Quảng Ninh.
(Nguồn:suckhoedoisong.vn)
Văn phòng Chính phủ vừa có Văn bản số 9425/VPCP-KGVX truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long về việc xử lý thông tin phản ánh liên quan đến giải pháp đồng bộ bảo đảm ATTP học đường.
Văn bản nêu rõ, theo phản ánh, bước vào năm học 2025-2026, ATTP học đường tiếp tục là mối lo ngại khi nguy cơ mất an toàn không chỉ xuất phát từ bữa ăn bán trú trong trường mà còn từ thực phẩm bày bán quanh cổng trường.
Dù đã có các mô hình như tự nấu, suất ăn sẵn hay chế biến tại chỗ, việc truy xuất nguồn gốc vẫn chủ yếu dựa vào giấy tờ, chưa kiểm soát tận gốc. Công tác giám sát an toàn thực phẩm (ATTP) còn lỏng lẻo do thiếu sự phối hợp giữa nhà trường, phụ huynh và đơn vị cung cấp. Ngoài ra, thực phẩm từ hàng rong không rõ nguồn gốc, chế biến kém vệ sinh cũng tiềm ẩn nguy cơ ngộ độc cao cho học sinh.
Trước thực trạng này, các chuyên gia đề xuất cần một giải pháp đồng bộ, bền vững, không chỉ siết chặt từ khâu cung ứng đến chế biến trong trường mà còn tăng cường kiểm soát khu vực xung quanh. Ba yếu tố cốt lõi được nhấn mạnh là: cơ chế – công nghệ – cộng đồng.
Cụ thể, cần thực thi nghiêm Luật ATTP; tăng cường thanh tra, xử lý vi phạm; ứng dụng công nghệ truy xuất nguồn gốc qua mã QR; đồng thời phát huy vai trò giám sát xã hội và nâng cao nhận thức của phụ huynh, học sinh.
Về vấn đề này, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất giải pháp đồng bộ bảo đảm ATTP học đường; chủ động thực hiện theo thẩm quyền hoặc báo cáo, kiến nghị cấp có thẩm quyền những giải pháp phù hợp nhằm tiếp tục hoàn thiện cơ chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo đảm ATTP tại các cơ sở giáo dục, đào tạo./.
Mạng lưới y tế công lập của tỉnh Tây Ninh (mới) gồm 11 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa tuyến tỉnh; 26 trung tâm y tế khu vực; 96 trạm y tế trung tâm và 9 bệnh viện tư nhân.
Trung tâm Y tế khu vực Bến Lức (Tây Ninh) vừa được đầu tư máy khám mắt mới. (Ảnh: Đức Hạnh/TTXVN)
Sau khi hai tỉnh Long An và Tây Ninh sáp nhập thành tỉnh Tây Ninh, hệ thống y tế trên địa bàn đã được kiện toàn, sắp xếp lại nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, phục vụ tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Hiện nay, mạng lưới y tế công lập của tỉnh Tây Ninh (mới) gồm 11 bệnh viện đa khoa và chuyên khoa tuyến tỉnh; 26 trung tâm y tế khu vực; 96 trạm y tế trung tâm cùng nhiều trạm y tế điểm.
Song song đó, hệ thống y tế tư nhân cũng phát triển mạnh với 9 bệnh viện tư nhân và gần 2.000 phòng khám đa khoa, chuyên khoa… góp phần quan trọng trong việc giảm tải cho tuyến trên, bảo đảm người dân được tiếp cận dịch vụ y tế ngay tại cơ sở.
Các trung tâm y tế huyện trước đây được chuyển đổi thành trung tâm y tế khu vực. Trung tâm Y tế khu vực Bến Lức (trước đây là Trung tâm Y tế huyện Bến Lức) phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân các xã Bến Lức, Thạnh Lợi, Bình Đức, Lương Hòa, Mỹ Yên.
Với đặc thù là địa bàn tập trung đông khu, cụm công nghiệp, lượng công nhân lớn, trung tâm đã trở thành điểm đến tin cậy của người dân trong vùng. Những năm gần đây, cùng với đề án đầu tư trang thiết bị của tỉnh, đội ngũ y bác sỹ tại trung tâm không ngừng nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lượng phục vụ.
Các Trung tâm Y tế khu vực tại tỉnh Tây Ninh ngày càng phục vụ tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. (Ảnh: Đức Hạnh/TTXVN)
Bác sỹ Nguyễn Văn Tùng, Phó trưởng Khoa Khám bệnh – Trung tâm Y tế khu vực Bến Lức cho biết khoa hiện có 10 phòng khám, được trang bị máy móc cơ bản như thiết bị đo mắt, nội soi tai mũi họng, máy nha khoa… Nhờ đó, nhiều bệnh lý thông thường được xử lý ngay tại tuyến cơ sở, bệnh nhân không phải chuyển lên tuyến trên.
Tuy nhiên, hiện trung tâm vẫn thiếu đội ngũ bác sỹ kế thừa, đặc biệt ở các chuyên khoa mắt, răng hàm mặt, tai mũi họng hiện chỉ có 1 bác sỹ. Nếu bác sỹ bận hoặc nghỉ đột xuất thì việc bố trí người thay thế gặp khó khăn.
Chị Võ Ngọc Phương Linh, ngụ xã Bến Lức chia sẻ: “Quy trình khám chữa bệnh tại Trung tâm y tế hiện nay rất thuận lợi, bệnh nhân được hướng dẫn tận tình, không phải chờ đợi lâu. Cơ sở vật chất mới khang trang, thiết bị hiện đại hơn, bác sỹ nhiệt tình, niềm nở. Gia đình tôi có bà nội, bà ngoại lớn tuổi thường xuyên đến khám bệnh như tim mạch, huyết áp tại đây và thấy rất yên tâm.”
Theo Sở Y tế tỉnh Tây Ninh, nhiều bệnh viện tuyến tỉnh cũng được trang bị các thiết bị hiện đại như hệ thống chụp mạch số hóa xóa nền DSA, máy cộng hưởng từ MRI 1.5 Tesla, CT Scanner 128 lát cắt, hệ thống định vị phẫu thuật thần kinh sọ não, máy lọc máu liên tục, hệ thống đốt sóng cao tần RFA.
Đặc biệt, 89 máy lọc thận nhân tạo đã được bổ sung cho các cơ sở y tế công lập, tăng số lượng bệnh nhân được điều trị suy thận ngay tại địa phương. Sự đầu tư này không chỉ giúp nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị, còn giảm tải đáng kể tình trạng chuyển tuyến, tiết kiệm chi phí và thời gian cho người dân.
Ông Đỗ Hồng Sơn, Giám đốc Sở Y tế Tây Ninh cho biết năm 2025, tỉnh triển khai dự án mua sắm máy chạy thận nhân tạo và một số trang thiết bị cấp bách với tổng vốn 75 tỷ đồng.
Ngoài ra, tỉnh cũng phân bổ hơn 135 tỷ đồng để mua sắm trang thiết bị thiết yếu cho các trung tâm y tế khu vực.
Theo Giám đốc Sở Y tế Tây Ninh, giai đoạn mới, ngành y tế sẽ tập trung sắp xếp tổ chức, ổn định nhân lực, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, đẩy mạnh giám sát dịch bệnh và kiện toàn y tế cơ sở.
Công tác đấu thầu, mua sắm thuốc và vật tư y tế sẽ được thực hiện minh bạch, hiệu quả nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân.
Ngành y tế Tây Ninh tiếp tục chú trọng đầu tư trang thiết bị hiện đại, nâng cao tay nghề cho đội ngũ y bác sỹ, hướng tới mục tiêu phát triển các kỹ thuật chuyên sâu, tạo điều kiện để nhân dân được thụ hưởng dịch vụ y tế chất lượng cao ngay tại địa phương./.
(Nguồn: vietnamplus.vn)
Khói thuốc lá chứa hàng nghìn chất độc hại. Với các loại thuốc lá mới, nhất là thuốc lá điện tử được các công ty sản xuất quảng cáo là “ít hại hơn” nhưng thực tế chứa hàm lượng nicotine rất cao để tăng khả năng gây nghiện, thậm chí bị lợi dụng pha trộn ma tuý.
Các bạn trẻ hãy nói không với thuốc lá.
Theo các nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới, thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong có thể phòng tránh, với hàng triệu ca tử vong mỗi năm trên toàn cầu. Các hợp chất độc hại trong thuốc lá, bao gồm nicotine, hắc ín và các chất gây ung thư, đã được chứng minh là tác nhân trực tiếp dẫn đến ung thư, bệnh tim mạch, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và nhiều hệ lụy sức khỏe khác. Đặc biệt, các sản phẩm thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng – dù được quảng bá là “an toàn hơn” – thực chất vẫn chứa nhiều hóa chất độc hại, có khả năng gây nghiện mạnh, tác động tiêu cực đến hệ thần kinh và sự phát triển của não bộ ở người trẻ. Đây là những nguy cơ tiềm ẩn, đã và đang được các công trình nghiên cứu y học cảnh báo mạnh mẽ.
Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hương, Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá (Bộ Y tế) cho biết, khói thuốc lá chứa 7.000 chất độc hại, trong đó có 69 chất gây ung thư. Các loại thuốc lá mới chứa hàm lượng nicotine cao hơn bình thường, khả năng gây nghiện mạnh hơn, thậm chí bị lợi dụng để chứa ma tuý. Những loại thuốc lá mới dù được các công ty thuốc lá quảng cáo là “ít hại hơn” nhưng vẫn chứa nicotine, thậm chí chứa hàm lượng nicotine cao hơn bình thường, khả năng gây nghiện mạnh hơn và còn bị lợi dụng để chứa ma tuý.
Với chiêu bài “ít hại hơn”, thuốc lá mới “tấn công” giới trẻ, trong đó có sinh viên, nó ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ tinh thần, thể chất người sử dụng; ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt, học tập, đến tương lai các em. Tuy nhiên, nhiều người vẫn mơ hồ về tác hại của thuốc lá, nhất là các loại thuốc lá mới. Không ít thanh niên, sinh viên bị khuất phục trước sự hấp dẫn giả tạo của thuốc lá, dẫn đến lệ thuộc vào thuốc lá. Đây được xem là khách hàng rất tiềm tàng bởi một khi thử hút lần đầu, một tỷ lệ lớn giới trẻ sẽ hút thuốc lâu dài. Độ tuổi thích “thử” thường từ 13 đến 24 tuổi. Do vậy các bạn trẻ cần biết nói “không” với thuốc lá, vì sức khoẻ bản thân, người thân và cộng đồng.
Mới đây, một cô gái mới ngoài 20 tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh đã rơi vào tình trạng ngừng tim nguy kịch, khi được đưa đến Bệnh viện Nhân dân 115 đã rơi vào tình trạng hôn mê, tụt huyết áp nặng và nhanh chóng ngừng tuần hoàn. Các bác sĩ phải tiến hành hồi sức tim phổi nâng cao, sốc điện nhiều lần, thở máy, sử dụng thuốc vận mạch và lọc máu liên tục để điều trị suy đa tạng. Rất may, sau 14 ngày điều trị tích cực, bệnh nhân mới hồi phục và xuất viện, may mắn không để lại di chứng thần kinh.
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do bệnh nhân có tiền sử gần hai năm thường xuyên sử dụng thuốc lá điện tử. Trên thế giới, nhiều báo cáo cũng ghi nhận các ca ngừng tim đột ngột ở người trẻ có thói quen hút thuốc lá điện tử. Khi đốt nóng, thuốc lá điện tử tạo ra hỗn hợp khí chứa nicotine, aldehyde, acrolein, hợp chất hữu cơ bay hơi và kim loại nặng – những chất có thể làm rối loạn nhịp thất nguy hiểm.
Tổ chức Y tế thế giới đã ước tính, tại Việt Nam có khoảng 40.000 người tử vong/năm vì các bệnh có liên quan đến thuốc lá, đến năm 2030, sẽ tăng lên tới 70.000 người/năm nếu các biện pháp can thiệp hiệu quả. Riêng tại Bệnh viện K, tỷ lệ bệnh nhân ung thư phổi có hút thuốc lá lên tới 96,8%.
Nhằm ngăn chặn thuốc lá mới tấn công vào giới trẻ, Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá đang phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức các chương trình Truyền thông trực tiếp về tác hại của thuốc lá, thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng. Tại các sự kiện, các cơ quan quản lý, nhà khoa học cung cấp các luận cứ xác thực, cập nhật về tác động tiêu cực của các sản phẩm thuốc lá đối với sức khỏe cộng đồng, từ đó nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, hình thành thói quen lành mạnh và lan tỏa thông điệp “thuốc lá, thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng – Nguy hại cho sức khỏe, cho tương lai và cho cả cộng đồng”. Việc chủ động tiếp cận thông tin khoa học, nhận diện đúng các nguy cơ và xây dựng lối sống lành mạnh là của mỗi cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Đại diện các đơn vị tổ chức đề nghị, mong muốn các bạn trẻ hãy kiên quyết “nói không” với thuốc lá dưới mọi hình thức, bởi chỉ một quyết định sai lầm nhất thời cũng có thể để lại hậu quả lâu dài cho sức khỏe và thậm chí sự nghiệp của các em.
(Nguồn: nhandan.vn)
18 tháng tuổi, bé T.L mắc suy giảm miễn dịch bẩm sinh thể nặng kết hợp – một thể bệnh nặng nhất trong nhóm rối loạn miễn dịch bẩm sinh đã vượt qua hành trình ghép tế bào gốc tủy xương đầy thách thức để được hồi sinh.
Bệnh nhi được chăm sóc và theo dõi sát sao trong quá trình hậu ghép.
Bé gái mắc thể bệnh nặng nhất trong nhóm rối loạn miễn dịch bẩm sinh
Mắc bệnh nặng ngay từ 4 tháng sau sinh, bé gái T.L (18 tháng tuổi, ở Hải Phòng) bắt đầu có những đợt viêm phổi, phải nhập viện điều trị dài ngày. Thời điểm này, hệ miễn dịch của trẻ liên tục gặp các vấn đề nghiêm trọng như xuất hiện biến chứng hạch nách sưng to sau khi tiêm phòng lao.
Tháng 8/2024, gia đình đã đưa trẻ đến Bệnh viện Nhi Trung ương thăm khám, thực hiện các xét nghiệm chuyên sâu về miễn dịch và di truyền, kết quả xác định trẻ mắc suy giảm miễn dịch bẩm sinh thể nặng kết hợp do đột biến gene hiếm gặp.
Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Thị Vân Anh, Phó Trưởng khoa Miễn dịch-Dị ứng-Khớp, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, T.L mắc thể bệnh nặng nhất của rối loạn miễn dịch bẩm sinh – hội chứng Omenn, vừa suy giảm nặng dòng tế bào lympho khiến trẻ dễ bị nhiễm trùng nặng, vừa có hiện tượng cơ thể có phản ứng tự viêm, khiến trẻ có tổn thương da đỏ da toàn thân, tổn thương các cơ quan, tăng men gan dai dẳng.
Ngoài biện pháp cách ly, sử dụng kháng sinh chống lại vi khuẩn, nấm, lao, virus, trẻ còn phải dùng thuốc ức chế miễn dịch để làm giảm các phản ứng tự viêm. Vì vậy, việc chuẩn bị cho ghép tế bào gốc tạo máu cấp cho trẻ được tiến hành khẩn trương. Đây là biện pháp vô cùng quan trọng, có thể giúp hệ miễn dịch của trẻ phục hồi hoàn toàn.
T.L đã có thể thỏa thích vui chơi, tươi cười như một trẻ khỏe mạnh.
Sau khi hội chẩn bệnh viện dưới sự chủ trì của Tiến sĩ, bác sĩ Cao Việt Tùng – Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, các bác sĩ xác định ghép tế bào gốc tạo máu là con đường cấp thiết để cứu sống T.L. Tuy nhiên, giai đoạn điều trị này vô cùng căng thẳng, bởi trẻ bị nhiễm trùng và tổn thương gan nặng, tưởng chừng không thể vượt qua.
Với sự quyết tâm của các y, bác sĩ, qua rất nhiều cuộc hội chẩn, phối hợp đa chuyên ngành miễn dịch, hô hấp, gan mật, hồi sức và tế bào gốc, đến tháng 7/2025 toàn trạng trẻ ổn định hơn để sẵn sàng cho việc ghép tế bào gốc.
Trải qua thách thức trong ghép tế bào gốc cho trẻ nhỏ
Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê – Trưởng khoa Ghép Tế bào gốc, Trung tâm Tế bào gốc, Bệnh viện Nhi Trung ương cho hay, quy trình ghép tế bào gốc ở trẻ nhỏ đặc biệt phức tạp. Trước tiên, bệnh nhi phải trải qua giai đoạn điều kiện hóa theo phác đồ hóa chất đặc hiệu, nhằm loại bỏ toàn bộ tủy xương cũ và ngăn ngừa sự đào thải.
Với trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, điều trị hóa chất rất khó khăn, bởi cơ thể non nớt, khả năng dung nạp thuốc kém, nguy cơ biến chứng cao.
Tại Trung tâm Tế bào gốc, tủy xương sau khi được lấy từ chị gái bệnh nhi, được xử lý bằng hệ thống thiết bị hiện đại, bảo đảm quy trình vô trùng nghiêm ngặt. Quá trình này diễn ra rất khẩn trương và chỉ trong vòng chưa đầy một giờ, tế bào gốc đạt chuẩn đã sẵn sàng để truyền vào cơ thể bệnh nhi.
Trực tiếp thực hiện ca ghép, Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê cho biết, ghép tế bào gốc cho trẻ nhỏ là thách thức rất lớn, nhất là đối với bệnh nhi có tình trạng nhiễm khuẩn rất nặng như T.L, không chỉ đòi hỏi kỹ thuật hiện đại mà còn cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa: Hồi sức hô hấp, dinh dưỡng, kiểm soát nhiễm khuẩn, truyền máu và miễn dịch. Từng khâu trong phòng ghép đều phải chính xác tuyệt đối để bảo đảm an toàn cho bệnh nhi.
Sau ca ghép, T.L được điều trị trong phòng vô khuẩn hoàn toàn, nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch, sử dụng thuốc chống thải ghép thế hệ mới và theo dõi sát tình trạng, thực hiện xét nghiệm huyết học, miễn dịch hàng ngày.
Có những giai đoạn trẻ mắc viêm phổi nặng và nhiễm khuẩn máu phải hỗ trợ bằng thông khí nhân tạo xâm nhập, đồng thời truyền nhiều loại kháng sinh mạnh để kiểm soát nhiễm khuẩn. Song, với nỗ lực và quyết tâm không dừng bước của đội ngũ y bác sĩ trong quá trình chăm sóc, hồi sức, tế bào tủy mới của T.L đã phát triển, các chỉ số máu ổn định và hệ miễn dịch mới đã hình thành.
Đến nay, T.L đã có thể tự thở, bú mẹ, cười đùa như một em bé khỏe mạnh và được ra viện. Bác sĩ đánh giá tiên lượng của bé khả quan, sau khi trở về cuộc sống thường nhật, trẻ hoàn toàn có thể phát triển bình thường như bao em nhỏ khác.
Ban lãnh đạo và các y bác sĩ Trung tâm Tế bào gốc tiễn bệnh nhi ra viện trong niềm hạnh phúc.
Xúc động khi thấy con vượt qua nguy kịch và khỏe mạnh trở lại, mẹ T.L nghẹn ngào chia sẻ, niềm hạnh phúc này không thể diễn tả bằng lời. “Gia đình tôi đã được các bác sĩ trao con lại từ tay tử thần. Con có thể vui chơi, cười nói trở lại là món quà vô giá. Gia đình chúng tôi biết ơn Ban lãnh đạo Bệnh viện, các bác sĩ của Trung tâm Tế bào gốc và Khoa Miễn dịch-Dị ứng-Khớp rất nhiều, các bác đã luôn đồng hành, giúp đỡ con và gia đình trong suốt gần 1 năm qua”, mẹ bệnh nhi xúc động nói.
Trước thực trạng các bệnh suy giảm miễn dịch bẩm sinh ở trẻ em ngày càng gia tăng nhưng phần lớn không được phát hiện và điều trị kịp thời, câu chuyện của T.L là minh chứng cho tầm quan trọng của chẩn đoán sớm và sự tiến bộ của ứng dụng ghép tế bào gốc trong y học.
(Nguồn: nhandan.vn)
Tại Khóa họp Đại hội đồng Y tế Thế giới (WHA) lần thứ 78 vừa diễn ra tại Thụy Sĩ, 124 quốc gia thành viên Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã nhất trí thông qua thỏa thuận toàn cầu về tăng cường khả năng ứng phó đại dịch trong tương lai.
Nhân viên y tế tiêm vaccine cho trẻ
Đối với Việt Nam, việc vận dụng tích hợp các khuyến nghị từ nghị quyết này không chỉ giúp bắt nhịp xu thế quốc tế mà còn mở ra cơ hội cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe toàn dân theo hướng bền vững.
Theo Bộ Y tế, thời gian qua hệ thống y tế Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong kiểm soát dịch bệnh, mở rộng mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao năng lực điều trị. Tuy nhiên, 70% gánh nặng bệnh tật hiện nay đến từ các bệnh không lây nhiễm như tim mạch, ung thư, tiểu đường, bệnh phổi mạn tính – phần lớn có thể phòng ngừa hoặc kiểm soát nếu được phát hiện sớm.
“Nếu không chuyển trọng tâm sang phòng ngừa, chúng ta sẽ mãi chạy theo điều trị và không bao giờ đủ nguồn lực. Sàng lọc sớm không chỉ cứu sống hàng ngàn sinh mạng mỗi năm mà còn giúp hệ thống y tế tiết kiệm hàng ngàn tỷ đồng chi phí”, PGS-TS Nguyễn Thị Liên Hương, Thứ trưởng Bộ Y tế, nhấn mạnh.
Khuyến nghị từ Nghị quyết WHA 78 chỉ rõ: muốn nâng cao tuổi thọ khỏe mạnh và giảm chi phí y tế dài hạn, mỗi quốc gia cần lấy phòng ngừa – phát hiện sớm – can thiệp kịp thời làm trụ cột của mọi chiến lược y tế.
Một trong những khuyến nghị cốt lõi là phát triển mô hình sàng lọc sớm và quản lý nguy cơ tại cộng đồng. Thực tế cho thấy, chi phí điều trị ung thư giai đoạn muộn cao gấp 5-10 lần so với phát hiện sớm; phát hiện sớm tăng huyết áp hay bệnh phổi mạn tính giúp giảm hàng chục phần trăm nguy cơ biến chứng tim mạch và tử vong.
Hiện Việt Nam đã triển khai một số chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung, ung thư vú, đái tháo đường tại cộng đồng, nhưng phạm vi còn hạn chế. Trong chiến lược sắp tới, cần xây dựng lộ trình sàng lọc toàn dân, kết hợp y tế cơ sở, y tế tư nhân, bảo hiểm y tế và hệ thống dữ liệu quốc gia.
Các chuyên gia cho rằng, để đạt mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân, Việt Nam cần xây dựng chiến lược y tế theo hướng đa ngành – dài hạn – lấy con người làm trung tâm. Trong đó các trụ cột chính cần bao gồm:
– Phòng ngừa chủ động: đưa mục tiêu dự phòng lên hàng đầu trong mọi chương trình y tế quốc gia.
Sàng lọc toàn dân: tổ chức định kỳ, ưu tiên nhóm nguy cơ cao, mở rộng đến vùng sâu, vùng xa.
– Đổi mới công nghệ – chuyển đổi số: dữ liệu hóa y tế, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong dự phòng, giám sát, chẩn đoán sớm.
– Tăng cường y tế công cộng: củng cố y tế cơ sở, đào tạo nhân lực, mở rộng dịch vụ cộng đồng.
Việc tích hợp khuyến nghị từ Nghị quyết WHA 78 vào chính sách y tế quốc gia là bước đi chiến lược giúp Việt Nam xây dựng một hệ thống y tế công cộng hiện đại, công bằng và bền vững.
Khi phòng ngừa trở thành “chìa khóa”, sàng lọc sớm là “lá chắn” và chuyển đổi số là “động lực”, mục tiêu “sức khỏe suốt vòng đời cho mọi người dân” sẽ không chỉ là tầm nhìn xa, mà là thực tế hoàn toàn có thể đạt được.
Nghị quyết WHA 78 được thông qua với 124 quốc gia bỏ phiếu ủng hộ, không có quốc gia nào phản đối và 11 nước bỏ phiếu trắng.
Dự thảo thỏa thuận nhấn mạnh đến việc khắc phục các bất bình đẳng trong phát triển thuốc, vaccine và trang thiết bị y tế, rút ra từ bài học đại dịch Covid-19 giai đoạn 2020 – 2022, vốn đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên toàn cầu.
(Nguồn: saigongiaiphong.vn)
Với chi phí hợp lý, dịch vụ nhanh chóng, trang thiết bị tiên tiến, đội ngũ bác sĩ giỏi và mô hình chăm sóc đặt người bệnh làm trung tâm, Việt Nam có nhiều tiềm năng trở thành điểm đến y tế uy tín của khu vực Đông Nam Á.
Hiện Bộ Y tế đang lấy ý kiến dự thảo Đề án phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao giai đoạn 2025 – 2030, gắn với thúc đẩy du lịch y tế. Đề án đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ có ít nhất 15 bệnh viện trên cả nước, gồm cả công lập và tư nhân đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (JCI hoặc tương đương), trong đó tối thiểu 5 bệnh viện công lập. 100% cơ sở y tế tham gia thí điểm phải có bộ phận tiếp thị và truyền thông quốc tế, cung cấp thông tin tối thiểu bằng 3 ngôn ngữ, gồm tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung hoặc tiếng Hàn.
Một bệnh nhân người Hàn Quốc bị đột quỵ, hôn mê hơn 80 ngày đã được các bác sĩ Bệnh viện FV điều trị thành công. Ảnh: BV
Đề án cũng đặt mục tiêu đến năm 2030, tối thiểu 5 địa phương trọng điểm gồm Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quảng Ninh và Khánh Hòa triển khai mô hình du lịch y tế tích hợp giữa bệnh viện, khách sạn, khu nghỉ dưỡng và lữ hành; đồng thời phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao, đủ sức thu hút người nước ngoài và người Việt Nam có khả năng chi trả.
Thống kê cho thấy, mỗi năm có khoảng 40.000 người Việt Nam ra nước ngoài khám, chữa bệnh với chi phí ước tính khoảng 2 tỷ USD. Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân chính là trong nước chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu về công nghệ, kỹ thuật hiện đại cũng như niềm tin vào hệ thống y tế. Do đó, việc đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ, cập nhật kỹ thuật mới trong chẩn đoán và điều trị được coi là yếu tố then chốt để giữ chân người bệnh.
Bác sĩ Jean-Marcel Guillon, Tổng Giám đốc Bệnh viện FV, người có hơn 40 năm kinh nghiệm quốc tế, trong đó 25 năm gắn bó với Việt Nam nhận định, y tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc với sự xuất hiện của nhiều bệnh viện hiện đại và đội ngũ y, bác sĩ giàu năng lực. Hơn 20 năm trước, khi mới đến Việt Nam, khái niệm “lấy bệnh nhân làm trung tâm” gần như chưa được nhắc tới. Theo đó, ông Jean-Marcel Guillon và các cộng sự đã xây dựng Bệnh viện FV dựa trên triết lý “lấy người bệnh làm trung tâm” và hiện nay, đã có nhiều bệnh viện tại Việt Nam cùng theo đuổi định hướng tương tự.
Bác sĩ Jean-Marcel Guillon, Tổng Giám đốc Bệnh viện FV khẳng định,Việt Nam có đầy đủ tiềm năng để trở thành điểm đến y tế uy tín của Đông Nam Á. Ảnh: BV
Bác sĩ Jean-Marcel Guillon khẳng định, Việt Nam hội tụ đủ điều kiện để phát triển “du lịch y tế” nhờ chất lượng dịch vụ, chuyên môn, chi phí hợp lý, thời gian chờ ngắn và sự tin tưởng từ cộng đồng quốc tế. Thực tế, trong nhiều năm qua, Bệnh viện FV đã và đang trở thành điểm đến quen thuộc của nhiều bệnh nhân quốc tế tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao tại Việt Nam. Bệnh viện thường xuyên tiếp nhận các ca bệnh từ các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, hay tại Úc, New Zealand, châu Âu, Canada và ở cả Hoa Kỳ đến điều trị tại các chuyên khoa chuyên sâu như ung bướu, tim mạch, chấn thương chỉnh hình hay chăm sóc giảm đau.
“Cùng môi trường y khoa hiện đại, chi phí chỉ bằng 50% so với các bệnh viện cùng tiêu chuẩn tại Đông Nam Á, chúng tôi không chỉ thu hút bệnh nhân quốc tế mà còn là lựa chọn tốt cho bệnh nhân trong nước, thay vì phải di chuyển đến các nước khác điều trị. Hiện chúng tôi đang tập trung phát triển các trung tâm chuyên khoa mũi nhọn như ung bướu, tim mạch – sản khoa, chấn thương chỉnh hình, ngoại thần kinh, phẫu thuật khúc xạ… Đồng thời, kiên định với triết lý lấy người bệnh làm trung tâm, xây dựng mô hình “bệnh nhân là đối tác” trong chăm sóc y tế”, Tông Giám đốc Bệnh viện FV thông tin thêm.
Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả tiềm năng, theo bác sĩ Jean-Marcel Guillon, vấn đề then chốt hiện nay cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ để phát triển khung chính sách, giải quyết các vướng mắc về thủ hành chính, pháp lý, đồng thời đẩy mạnh quảng bá hình ảnh quốc gia và tăng cường kết nối giữa y tế với du lịch.
Trước đó, tại Hội nghị toàn quốc về Du lịch – Y tế gắn với phát triển bền vững vừa diễn ra, Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn nhấn mạnh, phát triển du lịch y tế là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã được khẳng định trong nhiều văn bản như Luật Du lịch 2017, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn và Chiến lược quốc gia về bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe Nhân dân đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Gần đây nhất, Công điện số 34 của Thủ tướng Chính phủ (ngày 10/4/2025) tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy du lịch gắn với mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số.
Theo Thứ trưởng, ngành y tế những năm qua đã đạt nhiều tiến bộ quan trọng. Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện với 83 tiêu chí đã được áp dụng trên toàn quốc, đồng thời đang xây dựng bộ tiêu chuẩn nâng cao để tiệm cận quốc tế. Ngày càng nhiều bệnh viện, cả công lập và tư nhân đã được công nhận đạt chuẩn JCI, ACHSI. Cùng với công nghệ và quản trị, yếu tố con người luôn là “linh hồn” của hệ thống y tế, trong đó y đức, chất lượng và an toàn người bệnh luông được ngành y tế đặt lên hàng đầu.
(Nguồn: Đan Phương/Báo Tin tức và Dân tộc)
Virus hợp bào hô hấp (RSV) – mối đe dọa hàng đầu gây viêm phổi và suy hô hấp ở trẻ nhỏ cũng như người cao tuổi – đang bước vào giai đoạn hoạt động mạnh trong năm.
Dù lưu hành quanh năm, loại virus nguy hiểm này thường gia tăng đột biến vào mùa mưa và giai đoạn giao mùa, dẫn đến số ca nhập viện tăng cao, đặc biệt ở trẻ dưới 2 tuổi. Trong bối cảnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, các chuyên gia y tế cảnh báo cần chủ động phòng ngừa, trong đó tiêm vắc xin được coi là giải pháp hiệu quả và bền vững nhất.
Triển khai tiêm vắc xin phòng RSV cho thai phụ tại Hệ thống tiêm chủng VNVC. Ảnh: Phong Lan
Mối nguy hiểm âm thầm
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hầu hết trẻ em đều nhiễm RSV ít nhất một lần trước 2 tuổi. Virus RSV tồn tại dưới hai phân nhóm chính là RSV-A và RSV-B, cả hai đều có thể gây nhiễm trùng đường hô hấp trên và dưới. Trung bình, cứ 100 trẻ dưới 6 tháng tuổi thì có 2 – 3 trẻ phải nhập viện vì RSV, trong đó trẻ sinh non hoặc nhẹ cân có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Một trường hợp suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) do RSV vừa được các bác sĩ tại khoa Sơ sinh, Bệnh viện Đa khoa Đức Giang điều trị thành công, đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về mức độ nguy hiểm của loại virus tưởng chừng quen thuộc này. Bệnh nhi là một trẻ sơ sinh mới 32 ngày tuổi, sinh non ở tuần thứ 36, nặng 2.300 gram. Khi nhập viện, trẻ trong tình trạng suy hô hấp nhanh, toan hô hấp nặng kèm suy tuần hoàn, đối mặt với nguy cơ tử vong rất cao.
Ban đầu, trẻ được hỗ trợ thở ôxy và chuyển sang thở máy không xâm nhập. Tuy nhiên, chỉ sau ba ngày, tình trạng xấu đi nhanh, buộc phải đặt ống nội khí quản và thở máy xâm nhập. Dù đã tối ưu máy thở, phổi vẫn giãn nở kém, khí máu cho thấy toan hô hấp nặng. Trước nguy cơ đe dọa tính mạng, bác sĩ quyết định sử dụng thở máy tần số cao (HFO) – kỹ thuật hồi sức hiện đại dành cho ca nguy kịch. May mắn, sau hơn một ngày, phổi bệnh nhi cải thiện rõ, các chỉ số dần ổn định. Trẻ được chuyển về thở máy thường, cai máy sau bảy ngày và hồi phục hoàn toàn sau hơn hai tuần điều trị tích cực.
Không chỉ riêng tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang, các bệnh viện lớn như Nhi Trung ương, Nhi đồng 1 (thành phố Hồ Chí Minh) trung bình mỗi năm tiếp nhận hàng nghìn ca viêm phổi nặng do RSV, chiếm tỉ lệ rất cao trong tổng số bệnh nhi điều trị nội trú. Số ca bệnh thường gia tăng vào mùa mưa và khi thời tiết bước vào giai đoạn chuyển mùa. Nghiên cứu cho thấy hơn 80% trẻ cần nhập viện hoặc can thiệp y tế do RSV là dưới 18 tháng tuổi. Trong nhiều trường hợp, trẻ có thể để lại di chứng lâu dài như hen suyễn, thở khò khè kéo dài, suy giảm chức năng phổi, ảnh hưởng đến phát triển thể chất và trí tuệ.
“RSV là nỗi lo thường trực của các bậc cha mẹ có con nhỏ, đồng thời cũng là thách thức lớn cho các bác sĩ bởi diễn tiến bệnh thay đổi nhanh. Có trẻ hôm nay chỉ sốt nhẹ nhưng hôm sau đã khó thở, thậm chí phải thở máy. Những dấu hiệu cảnh báo mà các bậc phụ huynh cần lưu ý là sốt cao dai dẳng, thở nhanh, khò khè, rút lõm ngực và ho nặng” – PGS.TS Nguyễn Thị Diệu Thúy, Trưởng khoa Nhi (Bệnh viện Đại học Y Hà Nội) chia sẻ.
Không chỉ đe dọa trẻ nhỏ, RSV còn đặc biệt nguy hiểm với người lớn tuổi, nhất là những người từ 60 tuổi trở lên có bệnh nền như bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), tiểu đường, tim mạch, béo phì, suy thận. Virus này có thể làm trầm trọng các bệnh lý nền, tăng nguy cơ nhập viện kéo dài, chăm sóc hồi sức tích cực và tử vong. RSV còn liên quan đến việc gia tăng đột ngột các biến cố tim mạch như đột quỵ thiếu máu não, suy tim, với tỉ lệ nhập viện có thể tăng gấp 4 – 8 lần trong giai đoạn nhiễm cấp tính.
“Lá chắn miễn dịch” cho người già và trẻ nhỏ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm có 3,6 triệu ca nhập viện và khoảng 100.000 ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi vì RSV, gần một nửa trong số đó là trẻ dưới 6 tháng tuổi. Điều đáng nói là miễn dịch tự nhiên sau khi nhiễm RSV không bền vững.
Trước thực tế đó, bác sĩ Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa, Hệ thống Tiêm chủng VNVC cho biết, từ lâu nay, các chuyên gia nhi khoa, hô hấp trên toàn thế giới đã khẳng định sự nguy hiểm của virus hợp bào hô hấp RSV. Đây là loại vi rút hàng đầu gây viêm phổi, viêm phế quản, viêm tiểu phế quản, suy hô hấp nghiêm trọng khiến trẻ nhỏ và người cao tuổi phải nhập viện. Chính vì vậy, các nhà khoa học, các tập đoàn dược phẩm vắc xin đã không ngừng “chạy đua” trong cuộc chiến chống lại RSV để nghiên cứu và phát triển vắc xin phòng ngừa.
Từ cuối tháng 9-2025, lần đầu tiên Việt Nam triển khai tiêm vắc xin phòng RSV do Tập đoàn Pfizer (Mỹ) sản xuất. Vắc xin này được thiết kế đặc biệt để bảo vệ hai nhóm đối tượng dễ tổn thương nhất, đó là phụ nữ mang thai (từ tuần 24 đến 36 của thai kỳ) và người cao tuổi từ 60 trở lên. Với thai phụ, chỉ một mũi tiêm duy nhất đã có thể truyền kháng thể thụ động từ mẹ sang con, giúp trẻ sơ sinh có “lá chắn miễn dịch” vững vàng trong 6 tháng đầu đời – thời điểm dễ mắc RSV nhất. Ở người lớn tuổi, vắc xin giúp giảm gần 89% nguy cơ mắc nhiễm trùng hô hấp dưới do RSV trong năm đầu sau tiêm.
Tính đến tháng 9-2025, vắc xin RSV đã được phê duyệt sử dụng tại hơn 60 quốc gia và đưa vào chương trình tiêm chủng quốc gia ở nhiều nước, sử dụng cho phụ nữ mang thai, người cao tuổi và người có bệnh nền. Đây là loại vắc xin sử dụng công nghệ protein tái tổ hợp hiện đại, nhắm trực tiếp vào hai chủng nguy hiểm là RSV-A và RSV-B. Các nghiên cứu lâm sàng và đánh giá từ các tổ chức y khoa trên thế giới như Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC), Hội Sản phụ khoa Mỹ (ACOG) đều khẳng định, vắc xin này an toàn với thai phụ, thai nhi và người cao tuổi.
Trong khi chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho virus RSV, vắc xin chính là tấm “lá chắn” mạnh mẽ nhất, giúp bảo vệ các nhóm dễ tổn thương như trẻ nhỏ và người cao tuổi. Việc triển khai vắc xin RSV tại Việt Nam thể hiện nỗ lực chủ động phòng bệnh, góp phần giảm thiểu tỉ lệ tử vong và gánh nặng y tế.
(Nguồn: hanoimoi.vn)
