Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Chuyên Gia Về Bệnh Học Ung Thư Chỉ Mặt Nguyên Nhân Gây Ung Thư

Trong bệnh học chuyên khoa thì nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ung thư là: Lối sống, hút thuốc, rượu bia và thực phẩm bẩn thì lối sống dẫn chiếm đến 80% – Theo GS Nguyễn Bá Đức – Nguyên GĐ Bệnh viện K Hà Nội. 

Giáo sư Nguyễn Bá Đức chia sẻ về bệnh ung thư

Ung thư có phải do số mệnh?

Theo thống kê của các tài liệu Bệnh học tại Việt Nam chỉ có khoảng 69.000 ca mắc ung thư trong năm 2000 thì tới năm 2010, con số này đã tăng gần gấp đôi lên 126.000 ca. và đến năm 2020, số ca mắc ung thư sẽ gần 200.000 ca và đến nay ung thư đang trở thành gánh nặng cũng như nỗi ám ảnh của biết bao người.

Giáo sư Đức không thể nào quên những bệnh nhân òa khóc vật vã khi biết mình bị ung thư. Họ nghĩ rằng ung thư là do số phận, là định mệnh là ông trời gọi họ về với tổ tiên.

Nhưng theo vị giáo sư đầu ngành thì ung thư không phải là số mệnh, không phải là “quả báo” như người ta vẫn nghĩ mà đó là bệnh bất kỳ ai cũng có thể mắc phải ngay cả những bác sĩ chuyên ngành ung thư cũng từng mắc phải ung thư.

Ung thư không phải là chết điều quan trọng là cần có thói quen kiểm tra sức khỏe và lắng nghe cơ thể mình để thấy những thay đổi dù nhỏ nhất. Nếu lắng nghe cơ thể, phát hiện bệnh sớm thì bệnh nhân có cơ hội khỏi bệnh hoàn toàn có thể xảy ra.

Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào thần kinh trong cơ thể.

Tế bào  được hình thành do lối sống của con người

Cơ thể con người do hàng tỷ tế bào tạo nên. Mỗi tế bào được ví như những viên gạch để xây dựng nên tòa lâu đài cơ thể người. Bình thường tế bào sinh trưởng và phân chia để tạo ra tế bào mới chỉ khi cơ thể cần chúng.

Quá trình này diễn ra một cách tuần tự theo quy luật tự nhiên được xác định giúp cơ thể khỏe mạnh.

Nếu trong quá trình phát sinh, phát triển tế bào bị tác động bởi các tác nhân gây tổn thương làm rối loạn các thành phần mang tính di truyền trong nhân tế bào thì chúng có thể trở nên ác tính, phân chia không tuân theo quy luật, phát triển không kiểm soát thành ung thư.

Những tế bào này có thể xâm lấn gây tổng thương mô và cơ quan lân cận hoặc tác khỏi khối ban đầu đi vào mạch máu, bạch huyết. Sự lan rộng của bệnh được gọi là di căn.

Nguyên nhân chính dẫn đến ung thư

Theo giáo sư Đức lối sống dẫn tới 80% nguyên nhân gây ung thư trong đó các yếu tố nguy cơ điển hình đó là hút thuốc, rượu bia và thực phẩm bẩn. Ngay cả lối sống sinh hoạt cũng có thể dẫn đến bệnh.

Giáo sư Đức nhấn mạnh chế độ ăn nhiều mỡ động vật, ít chất xơ làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng và ung thư vú.

Các chất bảo quản, nhuộm mày thực phẩm có nguồn gốc hóa học, các chất trung gian chuyển hóa và sinh ra từ thực phẩm bị nấm mốc lên men là nguyên nhân gây ra nhiều loại ung thư đường tiêu hóa như ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư đại tràng.

Các loại thực phẩm như thịt hun khói, cá muối, các loại mắm và dưa muối, cà muối nhất là dưa khú có nhiều muối nitrat, nitrit là các chất gây ung thư thực quản và dạ dày.

Gạo, lạc là hai loại thực phẩm dễ bị nấm mốc Aspergillus flavus xâm nhiễm và tiết ra một loại chất độc là aflatoxin gây ung thư gan nguyên phát.

Ô nhiễm môi trường ở nước ta, hóa chất bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ dùng phổ biến trong nông nghiệp là yếu tốt nguy cơ gây ung thư vú và một số loại ung thư khác.

Thực phẩm bẩn – Mối lo của người Việt

Thực phẩm bẩn đang là mối lo hàng đầu của người Việt

Theo giáo sư Đức nguyên nhân ung thư như hiện nay do gen rất ít, do nội sinh tự con người sinh rất thấp chỉ dưới 10 % còn phần lớn do môi trường trong đó có thực phẩm gây ra nhiều loại ung thư.

Nói đến thực phẩm bẩn, ông cho biết bản thân ông cũng như nhiều người dân Việt hầu như ngày nào cũng nghe thấy ở đâu đó có thông tin về thực phẩm bẩn, thậm chí người ta còn tiêm thuốc an thần vào lợn, chất tạo nạc.

Thực phẩm bẩn là quốc nạn, nếu nhà nước, các cơ quan quản lý không vào việc chặn đứng cái này thì không biết sức khỏe của người dân sẽ đi về đâu, đất nước Việt Nam không biết ra sao.

Thậm chí các chuyên gia Bệnh học cũng không tìm được trừ khi thực phẩm mình mua về được đưa vào phòng thí nghiệm xem có chất tạo nạc không, còn tồn dư hóa chất hay không còn mắt thường thì họ cũng không thể nhận ra.

Nguồn: Cao dang Y Duoc TPHCM

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Virus Zika – Những Biện Pháp Phòng Tránh Cần Thiết

Tính đến thời điểm này, bệnh do virus Zika gây ra có thuốc điều trị đặc hiệu và cũng chưa có vắc xin phòng bệnh. Để chủ động phòng chống những bệnh do virus Zika xâm nhập và lây lan tại nước ta, các chuyên gia bệnh học khuyến cáo người dân làm những việc sau.

Muỗi Aedes là vật trung gian lan truyền virus Zika

Những hành động cần thiết phòng tránh vius Zika:

Phụ nữ mang thai hoặc dự định có thai trong vòng 6 tháng tới, không đi đến các quốc gia có dịch bệnh do virus Zika khi không cần thiết.

Danh sách quốc gia có virus được cập nhật trên Website: http://vncdc.gov.vn; http://moh.gov.vn.

Người dân về từ các quốc gia đang có dịch bệnh do virus Zika phát triển phải chủ động theo dõi sức khỏe trong vòng 12 ngày, nếu có dấu hiệu bất thường của sức khỏe phải đến cơ sở y tế để được khám, tư vấn và điều trị. SĐT liên hệ: 0989.671.115.

Để phòng, chống bệnh do virus Zika gây ra, người dân hãy áp dụng các biện pháp phòng chống muỗi đốt, chủ động tiêu diệt muỗi và bọ gây (loăng quăng).

Những cảnh báo từ Cục Y tế dự phòng về virus Zika

Virus Zika gây ra chứng teo não ở trẻ sơ sinh

Theo Cục Y tế dự phòng thuộc Bộ Y tế, tính đến ngày 01/02/2016, đã có 31 quốc gia và vùng lãnh thổ đã thông báo các trường hợp nhiễm virus Zika, trong đó có 25 quốc gia có dịch lây lan mạnh như: Braxin, Colombia, Mexico. Hiện có một sự liên hệ giữa việc nhiễm virus Zika trong thời điểm thai kỳ của người và chứng não nhỏ ở trẻ sơ sinh, điều này đang được các nhà bệnh học làm rõ hơn.

Cục trưởng Cục Y tế dự phòng – Ông Trần Đắc Phu cho biết, sự lưu hành của muỗi Aedes sẽ tạo cơ hội để lây lan virus Zika trên khắp thế giới, nguy cơ virus xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam hoàn toàn có thể. Hiện chưa có vắc xin phòng bệnh, cũng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và không có miễn dịch cộng đồng.

Ngoài ra, Việt Nam đang bùng phát dịch sốt xuất huyết cùng với vecto của muỗi truyền bệnh Aedes. Việt Nam hiện đang là điểm đến của khoảng 200.000 lượt khách nhập cảng hàng tuần. Đây là một trong những thách thức trong công tác phòng chống dịch do vi rút Zika xâm nhập và lây lan vào nước ta

Nguồn: Cao dang Y Duoc TPHCM

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Các Chuyên Gia Bệnh Học Thành Công Trong Điều Trị Ung Thư Máu

Theo các chuyên gia bệnh học thì phương pháp ghép tế bào gốc hiện đang mở ra rất nhiều cơ hội cho người bệnh, đặc biệt là những bệnh nhân bị mắc bệnh ung thư máu.

Phương pháp ghép tế bào gốc đã có những thành công nhất định.

Có mặt tại Viện Huyết Học và Truyền máu Trung ương bạn Nguyễn Thị Thanh Hương chia sẻ, phóng viên không khỏi “giật mình” khi biết được cách đây 3 năm, Hương là một bệnh nhân ung thư máu, và phải giành giật sự sống từng ngày với tử thần.

Hương cho biết, sau một lần bị sốt cao kéo dài không rõ nguyên nhân, khi đi khám và được chẩn đoán mắc ung thư máu, cuộc đời cô gái như rơi vào tuyệt vọng.

“Từ trên đỉnh cao của hoài bão và ước mơ, tôi như rơi xuống vực thẳm đen tối của cuộc đời”, Hương chia sẻ.

Tuy nhiên, mọi hy vọng đã hé mở với Hương, khi cô được ghép tủy đồng loại (ghép tủy từ người chị gái), và đến nay sau hơn 2 năm ghép Thanh Hương không những khỏe mạnh như bao cô gái khác mà còn rất hạnh phúc và thành công với công việc hiện tại.

Giống như Thanh Hương, chị Hoàng Thị Thùy Linh (sinh năm 1986), là bệnh nhân ghép tế bào gốc từ máu dây rốn cộng đồng đầu tiên tại Việt Nam, hiện giờ sau 18 tháng ghéo, bệnh nhân Linh đã khỏe mạnh và thậm chí là sợ bị tăng cân.

“Hiện giờ mọi thứ với tôi rất bình thường và ổn định, tôi đã đi làm và sinh hoạt như những người bình thường khác”, chị Linh chia sẻ.

Tương lai mở ra với những bệnh nhân ung thư máu.

Tương lai mở ra với những bệnh nhân ung thư máu.

Trường hợp của bệnh nhân Hương và Linh chỉ là một trong số 204 trường hợp đã được ghép tế bào gốc thành công trong 10 năm qua. Theo lãnh đạo Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương, từ tháng 6 năm 2006, số ca ghép của Viện cũng đã tăng lên với tốc độ rất nhanh, từ mức 4-6 ca/năm của giai đoạn trước, đã tăng vọt lên 19 ca năm 2011, rồi trung bình 50 ca/năm, đưa tổng số ca ghép tính đến tháng 5/2016 lên đến 204 ca, gồm 111 trường hợp ghép tự thân và 93 trường hợp ghép đồng loại.

GS Nguyễn Anh Trí- Viện trưởng Viện Huyết học và truyền máu Trung ương cho hay, trong hành trình 10 năm thực hiện ghép tế bào gốc, thành công của Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương chính là đã thành lập được ngân hàng gốc máu dây rốn cộng đồng. Cho đến nay, Viện cũng thực hiện thành công 10 ca ghép tế bào gốc từ nguồn máu dây rốn của Ngân hàng tế bào gốc máu dây rốn cộng đồng.

Ông Trí khẳng định, kết quả trên đã khẳng định các mẫu máu dây rốn từ ngân hàng có chất lượng và tiềm năng ứng dụng rất tốt. Kết quả này có thể đáp ứng được nhu cầu ghép tế bào gốc đồng loại ngày một tăng cao của các bệnh nhân tại Viện Huyết học và Truyền máu Trung ương nói riêng và bệnh nhân mắc các bệnh về máu của Việt Nam nói chung.

Nguồn: Cao đẳng Xét nghiệm TPHCM

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Người Bệnh Ung Thư Cần Sử Dụng Dinh Dưỡng Như Nào?

Các chuyên gia bệnh học cho biết trong điều trị ung thư thì dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng. Bệnh nhân phải được cung cấp dinh dưỡng đúng trước, trong và sau khi điều trị thì cơ thể mới thoải mái và mạnh khỏe.

    Vì sao chế độ dinh dưỡng quan trọng với bệnh nhân ung thư?

    Dinh dưỡng có vai trò quan trọng cho người bệnh ung thư vì bệnh tật và liệu trình điều trị làm thay đổi thói quen ăn uống, thay đổi tính thích nghi của cơ thể đối với thức ăn và dinh dưỡng.

    Nhu cầu dinh dưỡng của mỗi người bệnh không giống nhau. Chế độ dinh dưỡng tốt trong quá trình điều trị sẽ giúp người bệnh:

    – Cảm giác thoải mái hơn.

    – Duy trì sức khỏe và năng lượng.

    – Duy trì cân nặng và nguồn dinh dưỡng dự trữ.

    – Dung nạp các tác dụng phụ của thuốc tốt hơn.

    – Giảm nguy cơ nhiễm khuẩn.

    – Nhanh hồi phục tổn thương.

    Dinh dưỡng tốt nghĩa là ăn đa dạng thức ăn để cung cấp các chất dinh dưỡng cho cơ thể chống lại bệnh tật, bao gồm chất đạm, tinh bột/đường, mỡ, nước, vitamin và muối khoáng.

    Vai trò cụ thể của từng chất dinh dưỡng. 

    Chế độ dinh dưỡng có vai trò quan trọng trong việc hồi phục sức khoẻ bệnh nhân ung thư.

    Chất đạm (Proteins)

    Bình thường, con người cần chất đạm để tăng trưởng, sửa chữa các tổn thương mô và giữ cho hệ miễn dịch khỏe mạnh. Khi cơ thể không được cung cấp đủ chất đạm thì các mô cơ trong cơ thể sẽ được huy động để sử dụng, đáp ứng nhu cầu tiêu hao của cơ thể, khi đó bệnh sẽ lâu khỏi và giảm khả năng chống chọi với các bệnh nhiễm khuẩn.

    Đối với bệnh nhân ung thư thì nhu cầu chất đạm lại cần thiết hơn. Sau các liệu trình điều trị như phẫu thuật, hóa chất, tia xạ thì cần phải tăng cường chất đạm để giúp vết thương mau lành và tăng khả năng chống nhiễm khuẩn.

    Nguồn dinh dưỡng cung cấp chất đạm tốt gồm: cá, gia cầm, thịt, trứng, sữa ít mỡ, các loại hạt, đậu và sản phẩm của đậu.

    Chất béo (Fats)

    Chất béo đóng một vai trò quan trọng trong thành phần dinh dưỡng. Các chất béo (mỡ và dầu) sẽ tạo nên các acid béo và là nguồn dinh dưỡng giàu năng lượng cho cơ thể. Chất béo sẽ được chuyển hóa và sử dụng để dự trữ năng lượng, phân tách các mô và vận chuyển một số loại vitamin trong cơ thể.

    Có nhiều loại chất béo khác nhau. Khi cân nhắc đến tác dụng của chất béo đối với bệnh tim mạch thì nên chọn chất béo không bão hòa đơn (monounsaturated) và chất béo không bão hòa đa (polyunsaturated) mà không nên chọn chất béo bão hòa (saturated) hoặc chất béo chuyển tiếp (trans).

    – Chất béo đơn dòng: có trong dầu thực vật như dầu ôliu, dầu lạc.

    – Chất béo đa dòng: có trong dầu thực vật như dầu hướng dương, dầu ngô.

    – Chất béo bão hòa: có nguồn gốc từ động vật (gia súc, gia cầm, bơ, sữa..), từ thực vật (dừa). Không nên sử dụng quá 10% chất béo bão hòa trong số chất béo cần thiết.

    – Chất béo chuyển tiếp: hình thành khi dầu thực vật được chế biến thành bơ thực vật và có trong một số sản phẩm sữa. Không nên ăn loại chất béo này.

    Tinh bột, chất đường (Carbohydrates)

    Cacbon hyđrat gồm có tinh bột và đường, là nguồn cung cấp năng lượng chính cho cơ thể, cung cấp nhiên liệu cho các hoạt động thể lực và chức năng của các cơ quan. Nguồn cacbon hydrate tốt nhất là từ hoa quả, rau và ngũ cốc. Các thực phẩm này cũng là nguồn cung cấp vitamin, khoáng chất và chất xơ cho cơ thể.

    Nước

    Nước và các chất dịch có vai trò sống còn đối với sức khỏe. Tất cả các tế bào trong cơ thể cần nước để thực hiện chức năng. Nếu cơ thể không được cung cấp đủ nước hoặc bị mất nước (do nôn, tiêu chảy) thì cơ thể sẽ trong tình trạng mất nước. Như vậy thì sẽ làm mất cân bằng nước và khoáng chất, ảnh hưởng tới sức khỏe. Nước cũng được bổ sung từ thức ăn, nhưng mỗi người cần uống thêm 1.5 – 2.0 lít nước mỗi ngày để đảm bảo cung cấp đủ nước cho cơ thể hoạt động. Trường hợp bị tiêu chảy hoặc nôn thì phải bù nhiều nước hơn.

    Vitamin và khoáng chất

    Cơ thể cần một lượng nhỏ vitamin và khoáng chất để đảm bảo chức năng hoạt động của các cơ quan. Thông thường, vitamin và khoáng chất có trong các thực phẩm tự nhiên. Đối với những người ăn uống cân bằng thì thực phẩm có thể cung cấp đầy đủ vitamin, khoáng chất. Nhưng đối với bệnh nhân đang điều trị ung thư, do ảnh hưởng bởi tác dụng phụ của thuốc mà người bệnh thường ăn kém, không đảm bảo dinh dưỡng. Do đó, bác sĩ sẽ chỉ định bổ sung thêm các sản phẩm vitamin, khoáng chất tổng hợp, dùng hàng ngày. Người bệnh không được tùy tiện sử dụng các sản phẩm này vì một số vitamin, khoáng chất có thể làm giảm tác dụng điều trị của hóa chất và tia xạ điều trị ung thư.

    Các chất chống ôxy hóa

    Các chất chống ôxy hóa bao gồm vitamin A, C và E, selen, kẽm và một số enzym. Những chất này có tác dụng hấp thu và gắn các gốc tự do, hạn chế phá hủy tế bào bình thường. Nên ăn các loại rau, quả tự nhiên vì có chứa nhiều chất chống ôxy hóa. Tuy nhiên, không nên dùng các thuốc bổ sung chất chống ôxy hóa liều cao khi bệnh nhân đang điều trị hóa chất hay tia xạ.

    Thảo dược

    Thảo dược đã được sử dụng trong điều trị bệnh hàng trăm năm nay, cho các kết quả rất khác nhau. Ngày nay, thảo dược được chế biến trong rất nhiều dạng sản phẩm như viên, dịch, trà, dầu… Nhiều sản phẩm không độc hại và an toàn khi sử dụng, nhưng một số có thể gây ra tác dụng phụ có hại và nguy hiểm; thậm chí còn làm hạn chế tác dụng của thuốc điều trị ung thư (hóa chất, tia xạ). Nếu người bệnh muốn dùng thảo dược thì nên trao đổi với bác sĩ trước khi sử dụng.

    Nguồn: Cao đẳng Dược TPHCM

    Chuyên mục
    Tin Tức Y Dược

    Cần Phát Hiện Sớm Vẹo Cột Sống

    Vẹo cột sống là bệnh cơ xương khớp thường xảy ra ở bé gái và có thể được phát hiện ở tuổi thiếu niên. Quá trình biến dạng cột sống làm giảm không gian dành cho phổi, dẫn tới việc khó thở và các vấn đề khoang bụng.

      Nếu phát hiện sớm và điều trị ở độ tuổi thích hợp, biến dạng này có thể được khắc phục hoàn toàn.

      Đó là một buổi sáng ngày thứ tư khi Raju 31 tuổi đi bộ tới phòng khám. Anh chỉ có thể bước vài bước đã trở nên khó thở. Thậm chí khi ở tư thế nghỉ ngơi, anh cũng bị khó thở.  Tình trạng này là kết quả của sự hạn chế do biến dạng cột sống gọi là gù, tức là tình trạng cột sống bị biến dạng và còng xuống. Biến dạng này xuất hiện khi anh còn trẻ. Raju đã tư vấn một vài bác sĩ phẫu thuật, họ đã khuyên anh nên phẫu thuật để chỉnh sửa biến dạng. Anh đã sợ hãi và từ chối phẫu thuật. Một số người cũng nói với anh rằng phẫu thuật là nguy hiểm khi còn trẻ.

      Ngoài ra, sự kỳ thị của xã hội và những điều cấm kị liên quan tới tình trạng này bắt buộc anh phải trì hoãn điều trị. Nó đã trở thành một phẫu thuật đầy mạo hiểm vào giai đoạn đó, đặc biệt là có liên quan tới tình trạng phổi và độ cứng của biến dạng. Toàn bộ nhóm nghiên cứu tại bệnh viện được đưa ra thử thách. Phẫu thuật thực hiện trong 4 giờ để sắp xếp lại cột sống, cắt đi phần biến dạng, chỉnh sửa và cố định lại ở tư thế đúng. Tất cả được thực hiện không gây tổn thương cho tủy sống, được giám sát liên tục với sự giúp đỡ của hệ thống giám sát thần kinh mới nhất. Raju đã phẫu thuật an toàn, ở lại phòng chăm sóc đặc biệt và xuất viện sau vài ngày. Tới ngày thứ 2, Raju đã đi bộ thoải mái và trở về nhà sau 1 tuần. Cho tới bây giờ tức là 2 năm sau, anh vẫn có cuộc sống bình thường, đi bộ và thực hiện tất cả các hoạt động như bất cứ người bình thường nào khác bao gồm cả tập yoga.

      Vẹo cột sống gây ra những rối loạn gì?

      Vẹo cột sống thường gặp ở bé gái.

      • Biến dạng
      • Vấn đề phổi
      • Vấn đề thần kinh
      • Vẻ ngoài ốm yếu
      • Đau khi trẻ phát triển
      • Chiều cao thấp

      Có rất nhiều huyền thoại và quan niệm sai lầm trong xã hội, đặc biệt là khu vực nông thôn, nơi căn bệnh này phổ biến hơn. Cần phải phổ biến nhận thức về độ an toàn của phẫu thuật và nhận biết, điều trị sớm biến dạng trong giai đoạn sớm. Không phải tất cả các trường hợp cong vẹo cột sống đều cần phẫu thuật, vì bệnh có thể được theo dõi và kiểm soát bằng vật lý trị liệu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp bệnh nhẹ. Việc phát hiện bệnh không chỉ dựa vào các bác sĩ mà còn dựa vào phụ huynh, giáo viên. Cần giáp dục cộng đồng nói chung và phụ huynh, giáo viên nói riêng về cong vẹo cột sống.

      Chuyên mục
      Tin Tức Y Dược

      Chuyên Gia Bệnh Học Đẩy Lùi Quá Trình Lão Hóa Mắt Như Nào?

      Trên toàn thế giới có hơn 45 triệu người mù, tỉ lệ người mắc các bệnh liên quan đến mắt do suy giảm thị lực như mù, bệnh võng mạc có xu hướng gia tăng. Theo các chuyên gia bệnh học, quá trình lão hóa mắt bắt đầu từ tuổi 40 và rõ rệt nhất ở độ tuổi 50 – 60.

        Quá trình lão hóa mắt được thúc đẩy nhanh bởi tác động của môi trường làm việc, ô nhiễm khói bụi và việc bổ sung thiếu các chất dinh dưỡng hàng ngày.

        Tư vấn trực tuyến các bệnh liên quan đến mắt 

        Trong tổ chức buổi tư vấn truyền hình trực tuyến với chủ “Mắt và những bệnh liên quan đến tuổi tác” vào 9h30, thứ tư, ngày 29/6/2016. Chương trình có sự tham gia của PGS.TS. Cung Hồng Sơn, Phó giám đốc Bệnh viện Mắt trung ương, PGS.TS. Vũ Thị Thanh Huyền- Phó Trưởng khoa Khám bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện Lão khoa trung ương, ThS.BS. Lê Thị Hải, Nguyên Giám đốc Trung tâm Khám tư vấn Dinh dưỡng, Viện Dinh dưỡng Quốc gia với sự đổng hành  của nhãn hàng Kankavin.

        Trong hơn 2 tiếng diễn ra chương trình tư vấn, các chuyên gia y tế nhận được rất nhiều câu hỏi từ các vấn đề lão hóa do tuổi tác, các bệnh lý có liên quan đến mắt, chế độ dinh dưỡng, cách bảo vệ, phòng ngừa và duy trì sức khỏe cho mắt đến cả những căn bệnh phức tạp nhất của mắt là bong võng mạc…

        Cần bảo vệ sức khỏe đôi mắt đúng cách

        Hiện nay nhiều gia đình có xu hướng đưa con em mình đến các trung tâm được quảng cáo là để luyện mắt, cải thiện thị lực, thậm chí để hạn chế tăng độ cho người cận thị. Tuy nhiên điều này hoàn toàn không đúng. PGS. TS Cung Hồng Sơn cho biết, việc đi luyện mắt để chữa cận thị hoàn toàn không có cơ sở khoa học, không có phương pháp gì để luyện tập chữa cận thị. Nếu bệnh nhân mắc cận thị không muốn đeo kính thì có thể phẫu thuật cận thị.

        Bạn Nguyễn Hoài Anh ở Hà Đông nhờ bác sĩ tư vấn cách tập luyện thể thao sau phẫu thuật bong võng mạc, PGS Sơn cho rằng, sau phẫu thuật bạn chỉ nên tập các môn thể thao nhẹ nhàng, tránh các môn có tính đối kháng bởi với những môn vận động mạnh, dễ va chạm sẽ gây tổn thương mắt.

        Tư vấn cho nhóm bạn đọc hỏi về chế độ dinh dưỡng để có một đôi mắt khỏe, Ths.BS. Lê Thị Hải cho biết, để bảo vệ đôi mắt ngoài việc chú ý đến chế độ sinh hoạt như đọc hay viết phải đủ ánh sáng, bổ sung các loại thực phẩm chứa vitamin A, tiền vitamin A tốt cho mắt, nhất là ở những đối tượng thường xuyên ngồi máy tính, học hành nhiều, hay xem tivi, chơi game…. Với người già thường xảy ra tình trạng khô mắt, mờ mắt do lão hóa, cần bổ sung thêm các thực phẩm giàu vitamin A như gan, cà rốt, các loại thực phẩn tiền vitamin A, beta caroten như các loại quả có màu vàng, đỏ như đu đủ, bí đỏ hoặc các loại rau có màu xanh thẫm ….  Các loại rau này rất tốt giúp giảm nguy cơ thoái hóa điểm vàng ở mắt.

        Cần kiểm tra mắt định kỳ

        Đối với người cao tuổi việc bảo vệ mắt là một vấn đề vô cùng quan trọng bởi mắt cũng như các bộ phận khác cũng lão hóa theo thời gian, dễ mắc các bệnh như đục thủy tinh thể, vẩn đục dịch kính …. Một số đối tượng có nguy cơ cao mắc các bệnh về mắt như bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, béo phì, cao huyết áp cần đi khám sức khỏe định kỳ. PGS.TS Vũ Thị Thanh Huyền cho rằng, người lớn tuổi không nên chủ quan với bệnh tật, cần chú trọng bảo vệ đôi mắt, nhất là những người phải thường xuyên làm việc, lao động trong môi trường khắc nghiệt như nắng nóng, cần trang bị kính và quần áo bảo hộ, nếu bị khô mắt cần nhỏ mắt bằng nước muối sinh lý.

        Mọi người quan tâm tới sức khỏe của mình thường đi khám sức khỏe định kỳ, nhưng hầu hết lại bỏ qua việc khám mắt. Theo PGS.TS. Cung Hồng Sơn, khám sức khỏe định kỳ cho mắt tùy theo việc người bệnh mắc những bệnh gì về mắt. Vì mắc bệnh lý về võng mạc, cận thị có thời gian khám khác nhau, có thể 1, 3, 6 tháng hoặc 1 năm, như cận thị nên 6 tháng đến 1 năm khám 1 lần.  Giải thích lý do tại sao mọi người ít đi khám sức khỏe hơn bình thường, đó là do đau mắt rất khó chịu, đòi hỏi người bệnh phải đi khám ngay. Dân gian có câu “Thứ nhất đau mắt thứ nhì đau răng”, để thấy rằng đau mắt ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống. Nên nếu bị bất cứ vấn đề gì người bệnh thường đến khám ngay, nên bệnh nhân thường không đến khám định kỳ để phát hiện sớm các bệnh lý về mắt.

        TS Sơn khuyến cáo, cũng giống như các bệnh nội khoa khác, khi phát hiện những bất thường như nhức mắt, đau mắt, ra gỉ mắt, nhìn thấy hiện tượng vẩn đục cần đi khám ngay. Có nhiều bệnh lý về mắt nếu điều trị sớm sẽ đem lại hiệu quả cao, tuy nhiên nếu phát hiện muộn có thể mất thị lực. Như bệnh lý bong võng mạc chẳng hạn, bệnh nhân thỉnh thoảng hoa mắt như có đom đóm bay qua, đó là hiện tượng chớp sáng, kích thích dịch kính ở trên vùng võng mạc. Đây là những dấu hiệu sớm dễ bị bỏ qua trong bệnh lý bong võng mạc, bệnh lý nặng nhất trong nhãn khoa.

        Chuyên mục
        Tin Tức Y Dược

        Bệnh Tim Bẩm Sinh Và Những Điều Cần Biết

        Theo thống kê của các tài liệu bệnh học thì ngày nay tỉ lệ mắc bệnh tim bẩm sinh đang ngày càng gia tăng vì sự thiếu hiểu biết cũng như các thói quen xấu ở những phụ nữ sinh con.

          Với công nghệ tiên tiến hiện nay, người ta có thể chẩn đoán để phát hiện bệnh tim sớm khi thai nhi mới 22 tuần tuổi. Bệnh tim có thể được chia thành hai nhóm: nhóm bệnh tim bẩm sinh đơn thuần và nhóm bệnh tim bẩm sinh phức tạp.

          Nguyên nhân gây ra tim bẩm sinh

          • Béo phì, bệnh tiểu đường.
          • Sốt vi-rút, đặc biệt là hội chứng Rubella (sởi Đức)
          • Dùng các thuốc ngủ, điều trị lo lâu, hen phế quản, co giật, trầm cảm, các loại ma túy như cocain và heroin, thuốc nhuộm tóc, thuốc trừ sâu trong thực phẩm.
          • Tiếp xúc với tia Xquang trong 3 tháng đầu thai kỳ.
          • Sử dụng rượu và thuốc lá dưới bất cứ hình thức nào.
          • Gien di truyền.
          • Các thuốc địa phương được sử dụng để phá thai, nếu bào thai không bỏ được thì khi sinh ra dễ bị tim bẩm sinh phức tạp.
          • Nếu mẹ bị bệnh tim hoặc con trước bị bệnh tim.
          • Ngoài ra, mang thai muộn có thể gây ra tỷ lệ mắc hội chứng Down cao hơn, trong đó ngoài việc chậm phát triển tinh thần và các bất thường thể chất, 50% số chúng có thể có khiếm khuyết vách nhĩ thất phức tạp trong tim.

          Nghiên cứu của Baltimore chỉ ra rằng hút thuốc và uống rượu có thể làm tăng tỷ lệ tắc nghẽn ở bên phải của tim và có lỗ trong tim. Ngày nay, xuất hiện nguy cơ bị hội chứng rượu bào thai, trong đó ngoài bệnh tim, sự phát triển não bị ức chế và trẻ được sinh ra có đầu nhỏ.

          Dấu hiệu nhận biết trẻ sơ sinh bị tim bẩm sinh

          Nếu trẻ không khóc ngay sau khi sinh ra, da tím tái, khó thở, co rút lồng ngực, bị viêm phổi hoặc nhiễm trùng hô hấp lặp đi lặp lại, đây là những dấu hiệu trẻ có thể bị tim bẩm sinh.

          Bú sữa mẹ là một bài tập và nếu trẻ không thể bú sữa mẹ trong 10 phút và nghỉ giữa chừng, trẻ cảm thấy khó thở khi bú, đó là dấu hiệu tim yếu. Nếu phát hiện thấy trẻ có âm thanh rít ở tim, cũng cần đưa trẻ đi khám bác sĩ tim mạch.

          Cách phòng ngừa bệnh tim bẩm sinh cho trẻ như thế nào?

          Bạn cần ghi nhớ tất cả những điều nên tránh khi mang thai. Không uống rượu, hút thuốc và dùng bất cứ loại thuốc nào mà không có chỉ định của bác sĩ, đặc biệt trong 3 tháng đầu thai kỳ. Bắt đầu dùng axit folic thậm chí trước khi mang thai và liên tục để phòng ngừa tim bẩm sinh ở trẻ sơ sinh.

          Chuyên mục
          Tin Tức Y Dược

          Cảnh Báo Khi Sử Dụng Thuốc Giảm Đau

          Việc sử dụng thuốc giảm đau tùy tiện, đặc biệt là paracetamol sẽ gây nguy hại đến sức khỏe người dùng. Chuyên gia bệnh học khuyến cáo cẩn trọng khi dùng thuốc giảm đau?

            Bạn biết gì về thuốc giảm đau?

            Thuốc giảm đau chỉ là thuốc chữa triệu chứng, nhưng nó làm cho bệnh nhân cảm thấy dễ chịu nên thuốc giảm đau vẫn cần dùng. Tuy nhiên, thuốc có thể che lấp các dấu hiệu của bệnh trong khi bệnh vẫn tiến triển nên phải hết sức cân nhắc khi sử dụng. Hơn nữa, người sử dụng các chế phẩm thuốc giảm đau thường sử dụng sai phương pháp và không để ý đến tác dụng phụ của các loại thuốc này.

            Thuốc giảm đau paracetamol dùng quá liều có thể gây ngộ độc.

            Paracetamol là thuốc hạ sốt giảm đau và là một loại thuốc khá an toàn nhưng nếu sử dụng không đúng nó cũng gây ngộ độc, đặc biệt là ở gan và thận.

            Tổn thương ở gan: Những loại thuốc giảm đau chứa paracetamol có thể làm tổn thương gan một cách nghiêm trọng nếu dùng sai cách hoặc dùng quá liều, thậm chí có thể gây suy gan cấp và tử vong.

            Với liều điều trị, sau uống khoảng 1 giờ, thuốc được hấp thu hoàn toàn. Khi dùng quá liều, thuốc được hấp thu hết sau 4 giờ, ngoại trừ khi bệnh nhân uống đồng thời các thuốc làm chậm quá trình rỗng dạ dày và khi thuốc ở dạng giải phóng chậm thì thời gian hấp thu lâu hơn. Paracetamol được chuyển hóa ở gan với một tốc độ đều đặn. Quá trình chuyển hóa thuốc là căn nguyên dẫn đến ngộ độc. Khi qua gan có khoảng 4% lượng paracetamol chuyển thành N-acetylbenzoquinonimin là chất độc gây hoại tử gan không hồi phục. Nhờ có glutathion của gan, N-acetylbenzoquinonimin được chuyển hóa thành chất không độc đào thải ra ngoài.

            Do đó, mỗi lần dùng paracetamol (dù ở liều thông thường) cơ thể sẽ mất một lượng glutathion. Khi dùng quá liều paracetamol (người lớn 6 – 10g/ngày) gan không đủ lượng glutathion để giải độc, N-acetylbenzoquinonimin tích lại sẽ phân hủy tế bào gan, dẫn đến hoại tử không hồi phục, nhiễm toan chuyển hóa, hôn mê dẫn đến tử vong.

            Tổn thương thận: Paracetamol có thể gây tổn thương thận nếu sử dụng trong thời gian dài hoặc được sử dụng bởi những người đã có tiền sử về bệnh thận.

            Do đó, dù paracetamol là một thuốc khá an toàn, thì lời khuyên được đưa ra là không nên tự ý dùng thuốc, nhất là phụ nữ có thai hay người nghiện rượu. Trước khi sử dụng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng nên tham khảo ý kiến của bác sĩ hoặc nhân viên y tế.

            Chuyên mục
            Tin Tức Y Dược

            Cảnh Báo Những Loại Thuốc Khiến Bạn Gặp Ác Mộng

            Loại thuốc dễ khiến bạn gặp ác mộng? Các chuyên gia bệnh học cảnh báo một số loại thuốc trị bệnh gây tác dụng phụ, làm nhiễu loạn giấc ngủ, dễ khiến bạn gặp ác mộng

               

              Chuyên gia bệnh học bật mí những loại thuốc dễ khiến bạn gặp ác mộng

              Corticosteroids: Corticosteroids là thuốc chữa bệnh viêm khớp dạng thấp, lupus, hội chứng Sjogren, phản ứng dị ứng và bệnh gút. Tuy nhiên, loại thuốc này gây kích thích cơ thể tiết hormone adrenaline quá mức, khiến bạn thường xuyên mất ngủ vì gặp ác mộng. Các loại thuốc corticosteroids bao gồm cortisone, methylprednisolone, prednisone (Deltasone, Sterapred), triamcinolone…

              Nhóm thuốc Alpha-blocker: Loại thuốc này được dùng để điều trị cao huyết áp, u xơ tiền liệt tuyến và bệnh về mạch máu. Chúng giúp thư giãn cơ bắp và cải thiện máu cũng như lượng nước tiểu. Tuy nhiên, tác dụng phụ của Alpha-blocker là cản trở giấc ngủ REM, khiến bạn ngủ chập chờn, dễ gặp ác mộng. Các loại thuốc thuộc nhóm Alpha-blocker bao gồm alfuzosin, doxazosin, prazosin, silodosin…

              Các thuốc ức chế men Cholinesterase: Những người mắc bệnh Alzheimer thường sử dụng các loại thuốc ức chế men Cholinesterase để điều trị những biến động về tinh thần và suy giảm trí nhớ. Bằng cách điều chỉnh các enzyme phân bố chất truyền dẫn thần kinh acetylcholine, các loại thuốc này giúp cải thiện chức năng bộ nhớ, sự tập trung và khả năng phán xét. Tuy nhiên, điều này có thể hạn chế cơ thể tạo ra các chức năng thông thường của giấc ngủ, gây mất ngủ hoặc những giấc mơ bất thường. Các thuốc ức chế men Cholinesterase như donepezil, galantamine, rivastigmine.

              Thuốc ức chế men Cholinesterase

              Statins: Nhiều người thường sử dụng statins để chống cholosterol cao. Tuy nhiên, loại thuốc này khiến bạn bị bồn chồn do các cơ đau nhức, cơ thể không được nghỉ ngơi đầy đủ, gây ác mộng và mất ngủ. Các loại thuốc statins như atorvastatin, lovastatin, rosuvastatin, simvastatin.

              Glucosamine hoặc Chondroitin: Đây là các thực phẩm bổ sung được sử dụng để cải thiện chức năng của xương khớp bằng cách điều trị đau và viêm khớp. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra lạm dụng glucosamine hoặc chondroitin quá nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng tới đường tiêu hóa và chứng mất ngủ.

              Chuyên mục
              Tin Tức Y Dược

              Bà Bầu Dùng Paracetamol Tăng Nguy Cơ Trẻ Mắc Bệnh Hen

              Theo các nghiên cứu mới, các chuyên gia bệnh học cảnh báo thai phụ dùng paracetamol làm tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh hen? 

                Mối liên quan giữa bà bầu khi tiếp xúc Parecetamol như nào?

                Theo nghiên cứu mới đây chỉ ra mối liên quan giữa bệnh hen với phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh tiếp xúc sớm với paracetamol. Các nhà nghiên cứu tại Na-uy và Anh cho biết những phát hiện này có thể có tác động quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng vì paracetamol hiện đang được khuyến nghị là thuốc giảm đau cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.

                Các nhà nghiên cứu từ Viện Y tế công cộng Na-uy, Đại học Na-uy và Đại học Bristol đã kiểm tra bệnh án của 95.200 bà mẹ và 114.500 trẻ em. Họ kiểm tra để xem có mối liên quan giữa một số bệnh trong thời kỳ mang thai (trong đó có bệnh hen) và việc các thai phụ dùng paracetamol hay không.

                Sức khỏe của trẻ đã được kiểm tra khi chúng được 3 tuổi và 7 tuổi. Kết quả cho thấy 5,7% trẻ có bệnh hen khi lên 3 tuổi, và 5,1% trẻ bị bệnh hen khi được 7 tuổi. Họ thấy nguy cơ bị bệnh hen cao hơn 13% khi trẻ lên 3 tuổi nếu tiếp xúc với paracetamol từ trong bụng mẹ. Mối liên quan này là mạnh nhất khi người mẹ đã sử dụng paracetamol trên 1 lần để điều trị những triệu chứng thường gặp nhất trong thời kỳ mang thai: đau, sốt và cúm. Trẻ sơ sinh dùng paracetamol có nguy cơ phát triển bệnh hen khi 7 tuổi cao hơn 29%.

                Mặc dù trước đó có nhiều nghiên cứu về paracetamol và bệnh hen, nghiên cứu này đã không tính đến các chứng bệnh phổ biến khác trong thai kỳ có thể dẫn đến phát triển bệnh hen. Tuy nhiên, phát hiện này không đưa ra bất cứ thay đổi nào trong các khuyến cáo hiện nay về việc sử dụng paracetamol ở phụ nữ mang thai.

                Các kết quả nghiên cứu cho thấy các thai phụ dùng paracetamol và trẻ dùng paracetamol trong 6 tháng đầu đời làm tăng nguy cơ phát triển bệnh hen, nhưng vẫn cần nghiên cứu thêm để hiểu rõ hơn về mối liên quan này.

                Exit mobile version