Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Những triệu chứng phổ biến ở bệnh viêm khớp dạng thấp

Có khá nhiều triệu chứng của bệnh viêm khớp dạng thấp, bao gồm những triệu chứng của viêm khớp, những triệu chứng toàn thân và những triệu chứng ở các cơ quan khác.

Những triệu chứng của viêm khớp nói chung

Người bệnh bị cứng khớp: Bác sĩ Trường Cao đẳng Y Dược Sài Gòn cho biết cứng khớp làm hạn chế sự vận động của các khớp, triệu chứng này xuất hiện vào buổi sáng sau khi ngủ dậy, thường kéo dài trên 1 tiếng đồng hồ trước khi cảm thấy các khớp mềm ra.

Người bệnh bị sưng khớp: Khớp có thể có tụ dịch nhiều hoặc chỉ sưng phù lên.

Người bệnh bị nóng: Vùng da của khớp viêm có thể ấm hơn vùng da xung quanh.

Người bệnh bị đỏ da: Da vùng khớp viêm có thể có màu hồng nhạt, hoặc màu đỏ hơn so với vùng da xung quanh.

Người bệnh bị đau: Hiện tượng viêm khớp làm cho các khớp trở nên nhạy cảm hơn, căng hơn, từ đó gây ra những đau ở các khớp bị viêm.

Những triệu chứng toàn thân của viêm khớp dạng thấp

Cơ thể mệt mỏi.

Cơ thể bị trì trệ, suy nhược.

Chán ăn, có thể dẫn đến sự sụt cân nhanh.

Đau nhức mỏi cơ trên toàn thân.

Những triệu chứng ở các cơ quan khác khi bị viêm khớp dạng thấp

“Các nốt thấp”, có thể sờ thấy dưới da, thường ở khớp các khuỷu, đôi khi rất đau.

Người bệnh có thể viêm màng phổi không triệu chứng, theo bác sĩ Cao đẳng Dược Sài Gòn khi mà nhịp thở ngắn lại là lúc cần phải điều trị ngay.

Có thể ảnh hưởng lên thanh quản gây nên tình trạng khàn giọng.

Người bệnh cũng có thể bị viêm màng ngoài tim, thường không có triệu chứng rõ ràng nhưng khi có triệu chứng thường là nhịp thở ngắn lại hoặc đau tức ngực. Người bệnh viêm khớp dạng thấp dễ bị tắc nghẽn các động mạch tim, gây đau ngực hoặc bị nhồi máu cơ tim.

Khoảng 5% số người bệnh viêm khớp dạng thấp có những triệu chứng ở mắt, bao gồm mắt đỏ, đau mắt hoặc bị khô mắt.

Cách giảm đau nhanh nhất cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp

Chườm nóng lạnh: Người bệnh bị viêm khớp dạng thấp có thể dùng túi chườm nóng đặt lên vị trí đau từ 15 phút đến 20 phút mỗi lần, ngày thực hiện 3 lần thì sẽ giảm đau hiệu quả. Đối với cách chườm lạnh, dùng các túi nước đá chườm lên những vị trí đau từ 10 phút đến 15 phút. Lưu ý là chỉ được sử dụng phương pháp chườm lạnh khi người bệnh bị viêm khớp cấp tính.

Vật lý trị liệu: Để giảm đau cũng như tăng độ dẻo dai của các khớp thì vật lý trị liệu là phương pháp tốt nhất, mang lại hiệu quả giảm đau nhanh chóng cho người bệnh. Ngoài ra, các biện pháp massage hay thư giãn đều cho kết quả tốt. Dùng sóng ngắn: Đây là liệu pháp đặc biệt thường được dùng để điều trị khớp vai, giúp giãn cơ do tình trạng tập luyện quá căng.

Châm cứu: Khi những mũi kim được cắm vào cơ thể nó sẽ kích thích các dây thần kinh cảm giác, từ đó giúp cơ thể giãn cơ và giảm đau. Ngày nay, châm cứu đã được người bệnh tin tưởng và sử dụng nhiều trong việc hỗ trợ điều trị các bệnh về xương khớp nói chung và các bệnh viêm khớp dạng thấp nói riêng. Vi ba và siêu âm, đưa nhiệt xuống sâu hơn ở những vùng khớp không bị viêm: Biện pháp này được khuyến cáo không dùng với những người bệnh bị viêm khớp cấp tính.

Thủy liệu pháp: Trong môi trường nước, sức nặng của cơ thể được giảm thiểu tối đa, từ đó các khớp được thư giãn hơn. Tập luyện trong bể bơi rộng có thể làm giảm các cơn đau hiệu quả. Trên đây là một số phương pháp giảm đau tốt và nhanh nhất cho những người bệnh bị viêm đa khớp dạng thấp, giúp họ có một cuộc sống lạc quan hơn.

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Những đối tượng nào có nguy cơ mắc bệnh mỡ máu?

Bệnh mỡ máu là căn bệnh nguy hiểm và có thể để lại nhiều biến chứng nguy hiểm. Vậy những đối tượng nào dễ mắc bệnh mỡ máu nhất hiện nay?

Đừng lầm tưởng chỉ những người béo phì mới có nguy cơ mắc bệnh mỡ máu, trên thực tế có rất nhiều người gầy cũng đang có nguy cơ mắc bệnh và có những biến chứng nguy hiểm.

Những đối tượng nào dễ mắc bệnh mỡ máu?

Theo các bác sĩ chuyên khoa tư vấn, những đối tượng bị thừa cân, béo phì, hút thuốc lá, uống nhiều rượu, ăn nhiều thức ăn có chứa chất béo sẽ làm tăng lượng triglycerid trong máu là những đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh máu nhiễm mỡ. Bên cạnh đó máu nhiễm mỡ còn do biến chứng của các bệnh như: bệnh đái tháo đường, hội chứng thận hư, tăng urê máu, suy tuyến giáp, bệnh gan, nghiện rượu, uống thuốc tránh thai, một số thuốc tim mạch như thuốc ức chế bêta giao cảm, nhóm thuốc lợi tiểu thiazid. (chiếm khoảng 10% nguyên nhân gây bệnh máu nhiễm mỡ).

Trên thực tế, bệnh máu nhiễm mỡ có thể gây chết người nếu không được điều trị kịp thời. Bởi máu nhiễm mỡ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hình thành các mảng xơ vữa ở thành mạch máu, gây hẹp lòng mạch, tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, thiếu máu não… Nặng nề hơn nữa là vỡ các mảng xơ vữa làm lấp mạch não hoặc nhồi máu cơ tim có thể dẫn đến tàn phế hoặc tử vong. Tăng triglyceride sẽ làm gan nhiễm mỡ, đề kháng insulin dễ dẫn đến bệnh đái tháo đường. Ngoài ra nếu Triglyceride quá cao ( >1000mg/dl) có thể gây ra viêm tuỵ cấp.

Những người gầy cũng có nguy cơ mắc bệnh máu nhiễm mỡ

Đừng lầm tưởng chỉ những người béo phì mới có nguy cơ mắc bệnh mỡ máu, trên thực tế có rất nhiều người gầy cũng đang có nguy cơ mắc bệnh và có những biến chứng nguy hiểm. Trên thực tế, bệnh máu nhiễm mỡ là tình trạng rối loạn lipit máu. Tình trạng rối loạn này có thể xảy ra với bất kỳ ai, tuy nhiên những người béo phì sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người gầy. Bác sĩ Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn cho biết người gầy nếu có chế độ ăn uống không lành mạnh: sử dụng rượu bia, hút thuốc, ăn nhiều nội tạng động vật sẽ có khả năng mắc bệnh máu nhiễm mỡ cao. Chính vì thế người gầy cũng không nên chủ quan, nên đi khám sức khỏe định kỳ để nếu có bệnh có thể phát hiện sớm.

Theo đó, những người bị mỡ trong máu cao cần biết kiểm soát ăn uống một cách nghiêm khắc. Nên ăn những loại thực phẩm có chứa hàm lượng cholesterol thấp như rau xanh, các sản phẩm được làm từ đậu, thịt nạc thăn… Đặc biệt là nên ăn những loại rau xanh có chứa nhiều chất xơ để làm giảm được sự hấp thụ của đường ruột đối với cholesterol.

Ngoài ra bệnh nhân cũng không nên ăn tối quá muộn với thức ăn nhiều đạm vì rất khó tiêu hoá và sẽ làm lượng cholesterol đọng trên thành động mạch dẫn đến xơ vữa động mạch, đồng thời nên duy trì chế độ ăn nhạt vì thức ăn này có lợi cho sức khoẻ và bệnh tim mạch. Kiêng thức ăn có nồng độ chất béo cao, nên ăn những thức ăn ít chất béo như cá, đậu phụ, đỗ tương. Nên ăn thực phẩm có nhiều tác dụng giảm mỡ trong máu như: Gừng, chế phẩm đậu sữa, nấm hương, mộc nhĩ, hành tây, ba ba, trà, dầu ngô.

Để khắc phục tình trạng cholesterol máu cao thì người bệnh cần ăn ít chất béo, tránh ăn mỡ động vật và kem sữa bò: Bác sĩ Cao đẳng Y Dược Sài Gòn cho biết những thực phẩm này chứa nhiều chất béo no, những chất rất dễ làm tắc động mạch, cách tốt nhất là chọn toàn thịt nạc, nếu ăn thịt gia cầm thì nên bỏ da. Đồng thời nên dùng dầu ô liu, dầu cải, dầu ngô, dầu hạt rum, dầu đậu nành và dầu hướng dương. Đây là những loại dầu có tác dụng làm hạ mức cholesterol hiệu quả.

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Nguyên nhân gây bệnh viêm thực quản phổ biến

Bệnh viêm thực quản thường được phân loại theo nguyên nhân gây bệnh, tuy nhiên cũng có rất nhiều trường hợp bệnh nhân không tìm thấy nguyên nhân gây bệnh.

Để điều trị triệt để chứng bệnh viêm thực quản, bệnh nhân cần nắm vững được các nguyên nhân gây bệnh cũng như đặc trưng của từng nguyên nhân để chủ động trong cách phòng và điều trị chúng sao cho hiệu quả. Dưới đây là một số nguyên nhân thường gặp gây viêm thực quản.

Nguyên nhân gây viêm thực quản

Nguyên nhân gây viêm thực quản trào ngược: Bác sĩ Trường Cao đẳng Y Dược Sài Gòn cho biết trong cơ thể con người có một cấu trúc van gọi là cơ vòng thực quản dưới, cơ vòng thực quản dưới có tác dụng ngăn chặn sự trào ngược dịch dạ dày lên thực quản. Vì một nguyên nhân nào đó khiến cho cơ vòng thực quản dưới khép không khít sẽ làm cho dịch axit từ dạ dày trào lên thực quản gây  bệnh viêm loét thực quản, thậm chí là gây ung thư hóa.

Viêm thực quản do dị ứng: Bạch cầu ái toan là một dũng sĩ bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây hại như vi khuẩn, vi sinh vật,…ngoài ra chúng cũng có vai trò vô cùng quan trọng trong các phản ứng dị ứng của cơ thể. Viêm thực quản do dị ứng xuất hiện khi nồng độ của các bạch cầu ái toan này quá cao trong thực quản. Một số thực phẩm có thể gây dị ứng như: sữa, trứng, lúa mì, đậu nành, lúa mạch, đậu phộng và thịt bò. Thậm chí có trường hợp hít phấn hoa gây dị ứng viêm thực quản ở một số trường hợp.

Viêm thực quản do thuốc: Một số thuốc uống có thể gây tổn thương mô nếu vẫn tiếp xúc với niêm mạc thực quản trong một thời gian kéo dài. Ví dụ, nếu nuốt một viên thuốc với nước ít hoặc không có, các viên thuốc tự mình hoặc dư lượng từ viên thuốc này có thể vẫn còn lại trong thực quản. Các loại thuốc có liên quan đến bệnh lý thực quản, bao gồm: Aspirin và các thuốc không steroid khác chống viêm (NSAID) như ibuprofen và naproxen. Thuốc kháng sinh, chẳng hạn như tetracycline và doxycycline, Kali clorua, được sử dụng để điều trị thiếu kali, các thuốc bisphosphonates, bao gồm alendronate,điều trị cho xương yếu và dễ gãy (loãng xương).

Viêm thực quản truyền nhiễm: Viêm thực quản cũng có thể gây ra do nhiễm trùng bởi các vi khuẩn, siêu vi, nấm hay ký sinh trùng trong các mô của thực quản. Truyền nhiễm viêm thực quản là tương đối hiếm xuất hiện ở người bình thường và thường xảy ra ở những người có chức năng hệ thống miễn dịch kém, chẳng hạn như những người có HIV / AIDS hoặc ung thư.

Một loại nấm thường hiện diện trong miệng được gọi là Candida albicans là một nguyên nhân phổ biến của viêm thực quản truyền nhiễm. Nhiễm trùng này thường kết hợp với chức năng hệ thống miễn dịch kém, tiểu đường và sử dụng kháng sinh.

Một số yếu tố nguy cơ gây viêm thực quản

Giảng viên ngành Điều Dưỡng chia sẻ Ngoài những nguyên nhân trên, còn có một số yếu tố nguy cơ gây viêm thực quản bao gồm: bệnh béo phì; hút thuốc; mang thai; thoát vị, một điều kiện trong đó dạ dày đẩy thông qua cơ hoành nơi thực quản nối với dạ dày;

Một số loại thực phẩm có thể gây các triệu chứng của viêm thực quản trào ngược GERD: cà chua; trái cây có múi; rượu; gia vị thực phẩm; tỏi và hành tây; sôcôla; eosinophilic viêm thực quản

Hy vọng với những thông tin mà chúng tôi cung cấp, các bạn đã có thêm thông tin về nguyên nhân  gây bệnh viêm thực quản để chủ động phòng tránh hiệu quả căn bệnh này.

Xem hướng dẫn bản đồ: Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Giải pháp hồi phục việc học, tái xây dựng hệ thống giáo dục của các nước ASEAN

Vừa qua, ngày 16.3, phối hợp với Cambridge Partnership for Education, Bộ GD&ĐT Việt Nam và Ban thư ký ASEAN đã tổ chức hội nghị Hồi phục việc học, tái xây dựng hệ thống giáo dục bằng hình thức trực tuyến.

Tham dự hội nghị có Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Việt Nam – Nguyễn Kim Sơn, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc và các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN. Đây được xem là sự kiện lớn đầu tiên trong nhiệm kỳ Chủ tịch kênh Giáo dục ASEAN của Việt Nam ( nhiệm kỳ 2022 – 2023).

Giải pháp hồi phục việc học, tái xây dựng hệ thống giáo dục của các nước ASEAN

Không chỉ dừng lại ở việc Phục hồi:

Trong suốt gần 3 năm đại dịch Covid-19 hoành hành, hệ thống giáo dục trên khu vực các nước Đông Nam Á bị tác động nặng nề. Đặc biệt trong tương quan tình hình thời gian tới, đại dịch vẫn chưa thể kiểm soát, tác động xấu mà nó mang đến vẫn sẽ còn. Trước bối cảnh đó, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh Hội nghị với chủ đề “Hồi phục việc học, tái xây dựng hệ thống giáo dục” diễn ra rất đúng thời điểm và đặc biệt có ý nghĩa.

Theo ghi nhận của ban truyền thông trường đại học Lương Thế Vinh,  Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn còn chỉ rõ: Hội nghị này được coi như là cơ hội tuyệt vời để các bên cùng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm và những bài học thực tiễn về quá trình phục hồi trong lĩnh vực giáo dục của từng quốc gia và của cả cộng đồng.

Trong giai đoạn phục hồi mới thích ứng với đại dịch Covid-19, không thể chỉ chú trọng tới yếu tố phục hồi, muốn khắc phục những ảnh hưởng xấu mà dịch bệnh gây ra, các Bộ giáo dục ASEAN còn cần đúc kết kinh nghiệm để chuẩn bị tốt hơn cho việc ứng phó với các khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai.

Các nước đã và đang nỗ lực để xây dựng hệ thống giáo dục có khả năng chống chịu và có năng lực phục hồi tốt hơn. Các nỗ lực có thể kể đến như: củng cố lại hệ thống trường học; chuẩn bị các mô hình giáo dục học tập kết hợp trực tiếp và trực tuyến; điều chỉnh chương trình để thích ứng trong bối cảnh mới; nâng cao năng lực tự học, tự phát triển của người học.

Tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cũng thể hiện mong muốn được lắng nghe những chia sẻ liên quan đến vấn đề hổng kiến thức và tăng cường việc học; tiếp cận giáo dục; xây dựng hệ thống giáo dục tự cường, có khả năng tự phục hồi; sức khỏe và sự an toàn của người học. Ông hy vọng và tin tưởng, những chia sẻ trong hội nghị này sẽ góp phần hữu ích trong việc hỗ trợ các nước trong khu vực và các bên liên quan xây dựng chính sách và phát triển các sáng kiến ​​về các lĩnh vực vừa nêu.

Giải pháp hồi phục việc học, tái xây dựng hệ thống giáo dục của các nước ASEAN

Tái cấu trúc giáo dục trong một bức tranh rộng lớn hơn

Việc hổng kiến thức và tăng cường việc học, tiếp cận giáo dục và xây dựng hệ thống giáo dục tự cường, là 3 chuyên đề chính mà các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN cùng bàn về việc hồi phục việc học, tái xây dựng hệ thống giáo dục tại hội nghị diễn ra chiều qua.

Trình bày tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ GĐ&ĐT Việt Nam, ông Nguyễn Văn Phúc đã đưa ra những thống kê về tác động, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tới giáo dục Việt Nam; những nỗ lực và giải pháp của Việt Nam để bảo đảm cơ hội và chất lượng giáo dục. Ngay cả khi ở thời điểm trong đại dịch, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam cũng hết sức quan tâm đến vấn đề phục hồi sau đại dịch. Cụ thể, Bộ GD&ĐT Việt Nam đã khẩn trương trình Chính phủ Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030”.

Theo tin tức Y dược cập nhật, Y tế và Giáo dục luôn là 2 lĩnh vực được chính phủ ưu tiên hàng đầu trước trong và sau đại dịch covid – 19. Ngay từ quyết định của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” phê duyệt ngày 3/6/2020 đã nhấn mạnh giáo dục và y tế là 2 lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số đầu tiên.

Đồng thời thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cũng nhấn mạnh việc cần nghĩ đến việc tái cấu trúc giáo dục trong một bức tranh rộng lớn hơn, trong một bối cảnh mới, của một thế giới nhiều biến động, đầy thách thức, không chỉ bởi bệnh dịch mà còn các yếu tố liên quan đến chính trị, xã hội khác.

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

F0 cần test nhanh bao nhiêu lần là đủ, Sau dương tính

Với đa số mọi người, test nhanh dương tính giúp báo hiệu họ biết nhiễm COVID-19 có thể có hay không triệu chứng cần bắt đầu giai đoạn cách ly và khi nào có thể quay lại bình thường.

Hầu hết bệnh nhân sẽ có test nhanh dương tính với COVID-19 trong khoảng 10 ngày.

Tuy nhiên ở một số trường hợp, xét nghiệm COVID-19 dương tính có thể kéo dài nhiều tuần hoặc vài tháng ngay cả sau khi hồi phục. Điều này gây ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống của bệnh nhân.

Theo BS Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn, khi test nhanh dương tính lần đầu với COVID-19, có thể làm lại sau 5 ngày một lần. Nếu không triệu chứng khi mắc COVID-19 thì bệnh nhân có thể test nhanh vào ngày thứ 5. Nếu bệnh nhân là phụ nữ mang thai hoặc mắc bệnh lý nền thì có thể cần test lại vào ngày thứ 7. Như vậy, thường thì F0 cần test nhanh khoảng 3 lần tính cả lần đầu tiên với bệnh nhân không triệu chứng với mốc thời gian 5 ngày/lần và mốc 7 ngày/lần với người bệnh nền cho đến khi xét nghiệm báo âm tính.

Hầu hết bệnh nhân có kết quả test nhanh dương tính trong khoảng 10 ngày. Tuy nhiên, nếu làm xét nghiệm PCR có thể cho kết quả dương tính lâu hơn lên đến hai tháng, nhưng bệnh nhân sẽ không lây nhiễm cho người khác trong khoảng thời gian đó.

Với xét nghiệm PCR, ngay cả khi virus đã chết, RNA vẫn tồn tại xung quanh, vì vậy bạn có thể nhận được kết quả xét nghiệm PC dương tính giả lên đến hai tháng hoặc lâu hơn sau khi nhiễm bệnh. Trong khi đó, các xét nghiệm kháng nguyên – thường được gọi là test nhanh – phát hiện kháng nguyên hoặc các protein cụ thể từ virus. Xét nghiệm kháng nguyên thường ít nhạy hơn xét nghiệm PCR và cả hai xét nghiệm đều hoạt động tốt nhất ở bệnh nhân có triệu chứng.

CDC cũng khuyến cáo nên kéo dài thời gian cách ly COVID-19 lên đến 20 ngày với những người tình trạng suy giảm miễn dịch nghiêm trọng như ung thư, HIV, tiểu đường… hoặc những bệnh nhân mức độ nặng với COVID-19.

Cần test nhanh bao nhiều lần sau khi bình phục? Theo Trường Cao đẳng Dược Sài Gòn, khi test nhanh dương tính lần đầu với COVID-19, có thể làm lại sau 5 ngày. Nếu dương tính, bệnh nhân nên tiếp tục cách ly thêm 5 ngày nữa. Những người bị suy giảm miễn dịch hoặc bị COVID-19 mức độ nặng cũng có thể xét nghiệm khi kết thúc thời gian cách ly.

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Giáo dục giới tính trong trường học và gia đình còn nhiều rào cản

Cho đến nay, các vấn đề về tình dục, giới tính đến nay vẫn chỉ được dạy nhỏ giọt, khó trở thành môn học độc lập trong nhà trường, chuyên gia giáo dục phân tích những rào cản này.

Giáo dục giới tính trong trường học và gia đình còn nhiều rào cản

Giáo dục giới tính chưa được đầu tư đúng mức:

Tính đến thời điểm hiện tại, theo số liệu được ban tuyển sinh đại học trường đại học Lương Thế Vinh thống kê: số lượng các vụ xâm hại tình dục hay phá thai ngoài ý muốn ở trẻ vị thành niên ngày càng tăng cao. Mức độ này càng tăng cao trong bối cảnh học sinh phải học online kéo dài do tình hình dịch bệnh. Số lượng các em ở độ tuổi THCS xem phim khiêu dâm ngày càng cao. Khảo sát của UNICEF năm 2020 có tới 49% trẻ vị thành niên tham gia khảo sát thừa nhận đã tiếp xúc với nội dung khiêu dâm trực tuyến. Ghi nhận ở Việt Nam, hội Kế hoạch hóa gia đình cho biết mỗi năm có khoảng 30.000 ca nạo phá thai, chủ yếu ở độ tuổi 15 – 19.

Phân tích với ban tuyển sinh trường đại học Lương Thế Vinh, nhiều chuyên gia giáo dục chỉ ra rằng, biện pháp hiệu quả nhất để giảm thiểu tình trạng trên đó là việc tăng cường phổ biến kiến thức về giới tính và tình dục cho trẻ.

Tuy nhiên, các vấn đề về tình dục, giới tính đến nay vẫn chỉ được dạy nhỏ giọt. Trong các trường học ở Việt Nam hiện nay, giáo dục giới tính không phải môn riêng biệt mà được lồng ghép, tích hợp với môn học khác như Khoa học và Sinh học. Trẻ được làm quen với cách vệ sinh thân thể từ lớp ba nhưng phải đến lớp năm, các em mới tiếp xúc với những bài học đơn giản đầu tiên về giáo dục giới tính.

Tại gia đình, việc giáo dục giới tính cho trẻ cũng ít được thực hiện, hầu hết các bậc phụ huynh cảm thấy ngại, hoặc lảng tránh trước việc trẻ nhỏ tò mò về vấn đề giới tính. Thậm chí khi trẻ tự tìm đến các trang web không lành mạnh về giới tính, thay vì giải thích cho con hiểu rõ, nhiều phụ huynh còn có thái độ tiêu cực, cấm đoán, hoặc đánh mắng con mình. Điều này thực sự gây ra lo lắng lớp cho các nhà giáo dục, cũng như các nhà công tác xã hội.

Giáo dục giới tính trong trường học và gia đình còn nhiều rào cản

Những rào cản của giáo dục giới tính trong trường học và gia đình

Theo các chuyên gia, có nhiều lý do khiến giáo dục giới tính chưa thể trở thành môn học độc lập trong trường học. Trong đó, rào cản lớn nhất liên quan đến những e ngại về hiệu quả của môn học này khi chưa có các nghiên cứu sâu về tác động hai mặt của giáo dục giới tính; cũng như chưa có phương pháp giảng dạy phù hợp với tâm lý người học ở các xã hội Đông Á như Việt Nam.

Đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, Bộ có nhận được đề xuất đưa giáo dục giới tính trở thành môn học độc lập như Toán hay Tiếng Việt. Tuy nhiên, theo ông, chương trình giáo dục phổ thông mới đã có cách tiếp cận vấn đề này một cách toàn diện, dù không được dạy thành môn riêng. Học sinh sẽ được học về giới tính từ lớp 1, với các kiến thức được tích hợp vào các môn như Tự nhiên và Xã hội, Hoạt động trải nghiệm, Giáo dục thể chất.

Nhiều chuyên gia giáo dục cũng nhấn mạnh cần chủ động lên kế hoạch giáo dục giới tính cho học sinh tại trường học với tầm nhìn học kỳ hoặc năm học với các giai đoạn rõ ràng; đồng thời chuẩn bị đội ngũ chuyên môn, cập nhật kiến thức sao cho bài bản, nghiêm túc nhưng vẫn đảm bảo sự thoải mái, nhẹ nhàng để thu hút học sinh một cách tự nhiên. Đặc biệt nên mời các chuyên gia tâm lý – giáo dục, các bác sĩ chuyên khoa, các tổ chức y tế báo cáo, tập huấn, giảng dạy kiến thức, kỹ năng, phương pháp giáo dục giới tính nên được thực hiện định kỳ, thường xuyên trong trường học với nhiều hình thức. Tin tức Y Dược, hầu hết các chuyên gia y tế cũng khuyến cáo nên đầu tư hơn nữa cho giáo dục giới tính trong trường học.

PGS Đỗ Ngọc Khanh cho rằng trong khi giáo dục giới tính chưa trở thành môn riêng, các vai trò của giáo dục trong gia đình là rất quan trọng.  Từ khi trẻ còn nhỏ, thậm chí vài tháng tuổi, cha mẹ nên bắt đầu dạy giới tính cho con bằng cách chăm sóc, nâng niu cơ thể, để con biết trân trọng bản thân. Sau đó, khi con lớn dần, phụ huynh sẽ dạy con về vệ sinh, biết mặc quần áo để che cơ thể. Giáo dục giới tính trong trường học sẽ tiếp nối khi các con đã có kiến thức cơ bản từ gia đình.

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Stress học đường: Nguyên nhân, biểu hiện và cách khắc phục

Trong thời gian gần đây, những câu chuyện thương tâm về những em học sinh phải chịu áp lực của học hành, thi cử, gia đình đến mức không thể chịu đựng nổi, có những hành động tiêu cực đã cho thấy rõ, stress học đường ngày càng có những hệ lụy nghiêm trọng.

    Stress học đường: Nguyên nhân, biểu hiện và cách khắc phục

    Nguyên nhân và biểu hiện của triệu chứng Stress học đường:

    Stress học đường là một chứng bệnh y khoa được các nhà y học phân tích, giải thích như sau: Do ảnh hưởng của đại dịch covid – 19 khiến cho nếp sinh hoạt của trẻ bị đảo lộn quá nhiều, các em thường bị xáo trộn tâm lý, rối loạn cảm xúc, bị giãn cách xã hội, phải học online ở nhà, xa bố mẹ hoặc thậm chí phải đi cách ly một mình dễ khiến cho trẻ hoang mang, lo lắng ở các mức độ khác nhau. Khi đã ở trong trạng thái mất cân bằng đó, việc hầu hết các  địa phương bắt đầu cho phép trẻ đi học trở lại khiến cho không ít trẻ chưa quen với nếp sinh hoạt mới, hoặc phải chịu áp lực do căng thẳng trong việc học dẫn đến có các biểu hiện như khó ngủ, uể oải, đau đầu, căng thẳng, không muốn đi học sau ngày đầu đến trường.

    Theo ghi nhận của ban tuyển sinh đại học, trường đại học Lương Thế Vinh có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress học đường. Cụ thể:

    Có thể bắt nguồn từ ngoài xã hội hoặc từ chính gia đình trẻ, cha mẹ thường kỳ vọng ở con cao quá khả năng của trẻ, bắt trẻ học quá nhiều. Có nhiều trường hợp, sau cả ngày học ở trường, trẻ còn phải đi học thêm nhiều môn khiến trẻ phải di chuyển hết chỗ học này đến chỗ học khác, không còn thời gian để thư giãn, vui chơi. Tình hình còn nghiêm trọng hơn với các học sinh cấp 2 và cấp 3, khi thời gian lớn trong ngày và cả ở nhà, các em phải vùi đầu vào bài vở.

    Thường gặp nhất là trẻ bị áp lực học tập, cha mẹ hoặc thầy cô. Có thể do bạn bè bắt nạt, bạo hành, xa lánh. Hoặc do khối lượng bài tập quá lớn, hoặc trẻ không được làm theo ý mình, thấy sự thay đổi trong cơ thể ở tuổi dậy thì, do thấp hơn các bạn đồng trang lứa, không hợp với thầy cô giáo, quá cân nặng so với bạn, chuyển nhà, chuyển trường.

    Tin tức y dược cập nhật, Stress ở lứa tuổi nào cũng nguy hiểm, nhưng nó còn gây ra những hậu quả khó lường hơn đối với trẻ. Theo TS Lương Thị Tâm Uyên, cố vấn giáo dục của trường THPT Sài Gòn, hiện nay số lượng trẻ bị stress ngày càng ra tăng, thể nhẹ stress có thể có tác dụng tiêu cực khi trẻ có dấu hiệu thể chất như đau bụng, đau đầu, trẻ có vẻ hiếu động, mệt mỏi hoặc trầm cảm, dễ cau có, không thích các sinh hoạt thường ngày. Hoặc trẻ ít quan tâm đến những sinh hoạt quan trọng và thích ở nhà hơn là tiếp xúc với bạn bè; việc học sa sút, không thích đi học và không thích làm bài, học bài. Nặng hơn thì trẻ có hành vi chống đối như nói dối, trộm cắp, quên hoặc từ chối làm những việc lặt vặt và có vẻ lệ thuộc cha mẹ hơn trước. Thậm chí đáng báo động, nhiều trẻ stress nặng còn có những suy nghĩ tiêu cực, thậm chí dại dột làm ảnh hưởng đến thân thể của bản thân mình, những sự việc đau long trong thời gian qua như một lời cảnh tỉnh về tình trạng trên.

    Stress học đường: Nguyên nhân, biểu hiện và cách khắc phục

    Cách khắc phục:

    Theo Ths. Trần Minh Khương, chuyên viên đào tạo của trường đại học Lương Thế vinh, việc cân bằng cho trẻ là phương pháp hiệu quả nhất để giảm thiểu stress học đường. Bố mẹ và các thầy cô nên cùng trẻ thu xếp một quỹ thời gian biểu học tập hợp lý để đảm bảo cân bằng giữa thời gian học tập và vui chơi. Học tập dù biết là quan trọng và cần thiết nhưng khi trẻ có cơ thể khỏe mạnh, tinh thần thoải mái thì việc học tập mới mang lại hiệu quả.

    Tập cho trẻ kỹ năng phân loại bài tập. Những bài tập khó, dài hoặc cần học ngay nên ưu tiên thực hiện trước. Sau 45 – 60 phút làm bài, nên cho bé nghỉ giải lao 5 – 10 phút trước khi tiếp tục. Biện pháp này tuy đơn giản nhưng lại rât có hiệu quả trong việc giúp trẻ lấy lại năng lượng và làm đầu óc tinh táo.

    Nếu có điều kiện, nên tổ chức cho trẻ em học nhóm với nhau. Tuy nhiên vẫn cần đảm bảo các tiêu chuẩn về phòng chống dịch bệnh. Quan trọng nhất, ba mẹ hãy quan tâm, dành thời gian trò chuyện với con cái, hãy là chỗ dựa tinh thần để con cái có thể bộc lộ cảm xúc, tâm tư, lắng nghe, quan sát, phát hiện những thay đổi tâm lý của con, dù là nhỏ, để có can thiệp kịp thời.

    Chuyên mục
    Tin Tức Y Dược

    Đa dạng phương thức tuyển sinh đại học, thí sinh gặp bất lợi.

    Năm 2022, thí sinh có nhiều cơ hội lựa chọn phù hợp với năng lực thông qua việc đa dạng phương thức xét, thế nhưng lựa chọn phương thức xét tuyển nào để chiếm ưu thế trúng tuyển lại là chuyện không hề dễ dàng.

      Đa dạng phương thức tuyển sinh đại học, thí sinh gặp bất lợi.

      Có quá nhiều phương thức tuyển sinh, cũng như tổ hợp xét tuyển trong năm 2022:

      Các mùa tuyển sinh gần đây, đa dạng phương thức tuyển sinh đại học không còn là điều gì quá xa lạ nữa. Sự đa dạng này là nhu cầu tất yếu khi các trường đại học được giao quyền tự chủ vào tay. Nó cũng thể hiện nỗ lực của các cơ sở giáo dục đại học trong việc nâng cao chất lượng tuyển sinh đầu vào. Tuy nhiên sự đa dạng này cũng phần nào gây ra khó khăn cho thí sinh, làm nhiều em học sinh bị rối trong quá trình nắm bắt thông tin cũng như lựa chọn được một cách xét tuyển phù hợp với năng lực. Ghi nhận của ban tuyển sinh trường đại học Lương Thế Vinh, thống kê mùa tuyển sinh năm 2022 có tới hơn 20 phương thức xét tuyển vào các trường đại học, cao đẳng.

      Theo quy chế tuyển sinh mà Bộ Giáo dục và Đào tạo mới ban hành, dự kiến tiến hành lọc ảo chung với tất cả các phương thức tuyển sinh của các trường. Với quy định này đòi hỏi việc chọn một phương thức xét tuyển để nắm được ưu thế ngay cho bản thân là điều được thí sinh đăng biệt quan tâm. Các thí sinh phải có sự tính toán, cân đong, đo đếm kỹ lưỡng để lựa chọn phương thức xét tuyển thông minh nhất, phù hợp và hiệu quả nhất.

      Những năm trở lại đây, trong số hàng chục phương thức xét tuyển vào các trường cao đẳng, đại học, phương thức xét tuyển được các thí sinh sử dụng nhiều nhất là: Xét tuyển thẳng, xét tuyển theo điểm thi tốt nghiệp THPT, xét tuyển bằng học bạ THPT và điểm thi đánh giá năng lực. Trong đó, phương thức xét tuyển dựa trên điểm thi đánh giá năng lực đã tăng lên đáng kể trong 2 năm trở lại đây.

      Đa dạng phương thức tuyển sinh đại học, thí sinh gặp bất lợi.

      Khó khăn cho thí sinh khi lựa chọn cách xét tuyển phù hợp:

      Việc tăng quá nhiều phương thức tuyển sinh đại học trong năm nay cũng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ, việc các trường bổ sung nhiều phương thức xét tuyển kéo theo việc phân bổ chỉ tiêu không hợp lý, có sự tăng giảm mạnh qua các năm. Ngoài ra, việc gia tăng nhiều phương thức xét cũng khiến thí sinh không có sự chuẩn bị kịp thời.

      Thầy Trịnh Văn Cư  – trưởng phòng truyền thông của trường đại học Lương Thế Vinh cũng chỉ ra rằng, việc các trường chạy đua số lượng phương thức tuyển sinh rất nguy hiểm. Việc này cần phải có sự cân nhắc kỹ càng, không nên thêm quá nhiều phương thức tuyển sinh bởi cuối cùng cũng vẫn chỉ chọn từng đó chỉ tiêu. Việc dùng quá nhiều phương thức tuyển sinh ngoài ảnh hưởng lớn đến các thí sinh muốn xét tuyển đại học, nó còn khiến cho các trường đại học loay hoay, bị rối trong việc vận hành hệ thống tuyển sinh, dễ sai sót khi phải thực hiện cùng một lúc quá nhiều phương thức tuyển sinh.

      Tin tức y dược – giáo dục cập nhật, trong hàng loạt phương thức xét tuyển mà các trường đại học, cao đẳng đưa ra có không ít phương thức xét tuyển có kèm thêm tiêu chí phụ, ví dụ như xét tuyển thẳng theo chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, xét tuyển bằng học bạ THPT, xét tuyển thông qua bài thi SAT. Do đó, nếu thí sinh không tỉnh táo rất dễ rơi vào trạng thái đu dây trên miệng vực.

      Rất khó để khẳng định phương thức nào phù hợp nhất với thí sinh. Bởi tùy từng giai đoạn có kết quả tốt nhất, người học sẽ có được phương thức xét tuyển phù hợp với bản thân. Với những thay đổi mà Bộ GD&ĐT dự kiến điều chỉnh trong năm nay là lọc ảo chung thí sinh trúng tuyển 1 trường thì chắc chắn sẽ không còn hiện tượng có thể trúng tuyển cả 4 phương thức vào 4 trường đại học khác. Với cách thức xét tuyển năm nay, các trường sẽ ưu tiên chốt lại trong đợt đầu tiên để ngay sau đó ổn định công tác dạy và học. Các em học sinh cũng đừng vì thế mà hoang mang, trong thời điểm này ngoài việc các em có thể đăng ký xét tuyển sớm ở một số trường, tham gia thi các bài thi đánh giá năng lực thì việc ôn luyện cho kỳ thi THPT quốc gia cũng rất quan trọng, giúp tăng cơ hội cho các em.

      Dự kiến năm 2022, thời gian đăng ký nguyện vọng xét tuyển đại học cũng như phương thức và tổ hợp xét tuyển sẽ diễn ra sau khi kết thúc kỳ thi tốt nghiệp THPT, dự kiến các em có khoảng 30 – 35 ngày để nghiên cứu, tính toán, đăng ký xét tuyển. Lúc đó các em đã có khá đầy đủ cơ sở dữ liệu để cân nhắc xem mình có ưu thế nào vượt trội hơn.

      Chuyên mục
      Tin Tức Y Dược

      Hội chứng tâm thần “kẻ mạo danh” là gì? Có nguy hiểm không?

      Hội chứng tâm thần “kẻ mạo danh” có tên khoa học là Impostor Syndrome, theo thống kê, 70% dân số toàn cầu hiện nay mắc phải hội chứng này mà không biết.

        Hội chứng tâm thần “kẻ mạo danh” là gì? Có nguy hiểm không?

        Hội chứng “kẻ mạo danh” (Impostor Syndrome):

        Theo những nghiên cứu khoa học, hội chứng này xuất hiện nhiều hơn ở những người đã có thành công nhất định, những người nổi tiếng, những người làm việc trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, kinh tế tài chính…  Theo các chuyên gia tâm lý, chu kỳ mắc bệnh của hội chứng kẻ mạo danh bắt đầu bằng việc mong muốn trở thành người đặc biệt, người giỏi nhất hay muốn được xuất sắc trong mọi mặt. Đến khi thành công và được mọi người ghi nhận, tung hô, họ bắt đầu chịu áp lực và xuất hiện nỗi sợ thất bại, sợ không vượt được qua thành công của chính mình, sợ bị phủ nhận khả năng và hạ thấp sự tán dương. Hội chứng này càng trở nên rõ ràng khi những người mắc hội chứng bị trầm cảm, ảo tưởng họ làm không đủ tốt và mất đi những đức tính kiên quyết, tự tin nhưng thận trọng, có tính toán, vốn là thế mạnh ban đầu làm nên thành công.

        Theo ghi nhận của ban truyền thông, trường đại học Lương Thế Vinh, vào năm 1978 trong chủ đề “Hội chứng kẻ mạo danh ở phụ nữ thành đạt” của tiến sĩ Pauline R. Clance và Suzanne A. Imes thuật ngữ “Kẻ mạo danh” lần đầu tiên xuất hiện. Tiến sĩ Clance và Imes khẳng định hội chứng kẻ mạo danh xuất phát từ nhiều yếu tố như các định kiến xã hội, ảnh hưởng bởi sự giáo dục của gia đình và các văn hóa sống mà bản thân người bệnh đã trải qua. Hậu quả của hội chứng này khiến những người giỏi thực sự có xu hướng trầm cảm, lo âu và sự tự tin hạ thấp, hoặc có khi một số người khác lại trở nên thận trọng quá mức cần thiết, số khác có hành vi bốc đồng để che giấu sự thiếu tự tin, cố thuyết phục mình vẫn ổn và qua đó giữ hình tượng của bản thân.

        Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Khoa học Hành vi Quốc tế (International Journal of Behavioural Sciences) cho thấy hơn 70% dân số toàn cầu sẽ phải đương đầu với hội chứng mạo danh vào một thời điểm nào đó trong cuộc đời.

        Hội chứng tâm thần “kẻ mạo danh” là gì? Có nguy hiểm không?

        Hội chứng Kẻ mạo danh có nguy hiểm không?

        Elon Musk là một nhân vật nổi tiếng điển hình của người mắc hội chứng tâm thần ‘kẻ mạo danh’. Sự giàu có và thành công của vị tỉ phú này khiến ai cũng phải nể phục, ngưỡng mộ, vậy mà khó có ai thấu hiểu được nỗi khổ của vĩ nhân này khi ông vẫn phải uống thuốc ngủ hàng đêm vì luôn nghĩ mình chưa phải số một. Mới đây, Elon Musk đã mua thêm Twitter dù ông đang quản lý 4 công ty và Tesla thì đang phát triển tốt bất chấp những thách thức. Bỏ qua những thuyết âm mưu về việc thâu tóm quyền lực mềm từ mạng xã hội, nhiều chuyên gia tâm lý cho rằng Elon Musk đang mắc hội chứng Kẻ mạo danh, người luôn nghi ngờ thành quả mà mình đạt được.

        Chẳng riêng gì Elon Musk, trên thực tế hàng loạt các tỷ phú hoặc nhiều người thành công khác cũng mắc hội chứng này mà không hề hay biết. Điển hình như Mark Zuckerberg thức dậy mỗi sáng không phải để ăn mừng Facebook có 2,8 tỷ người dùng mà để tự hỏi tại sao hơn một nửa còn lại của thế giới không dùng mạng xã hội của mình? Thế rồi đúng như những lo lắng đó, Tiktok trỗi dậy đe dọa vị thế của Facebook khiến ông lớn này phải thành lập Meta.

        Tin tức y dược ghi nhận được, trong cuộc sống đời thường, hội chứng Kẻ mạo danh xuất hiện thường xuyên ở bất cứ nơi đâu, từ trường học, công sở cho đến tận từng gia đình. Đôi khi thành công quá lớn khiến một người đặt ra mục tiêu quá cao cho bản thân và khi không đạt được, họ sẽ nghi ngờ bản thân, lo lắng về việc mình không đủ giỏi rồi tự dằn vặt mình trong nhiều ngày. Hội chứng này nếu kéo dài lâu sẽ gây hậu quả rất nguy hiểm.

        Để vượt qua được hội chứng kẻ mạo danh thì bạn sẽ cần nhiều thời gian, trải nghiệm trong cuộc đời chứ không thể dứt điểm ngay được. Tuy nhiên có một vài mẹo nhỏ để những người tài năng mắc bệnh đối phó với hội chứng này. Học cách đón nhận thành công của bản thân và không so bì với người khác.

        đẳng Y Dược Pasteur tại Đọc thêm »

        Chuyên mục
        Tin Tức Y Dược

        Bé trai có bàn tay 8 ngón hiếm gặp

        Một bé trai 5 tuổi ở TP HCM có bàn tay trái bị dị tật 8 ngón, 2 bên đối xứng qua trục bàn tay. Đây là dị tật hiếm gặp – trong 200 năm có chưa đến 100 ca.

        • Kỹ thuật phục hồi chức năng, ngành học “hót” trong tương lai

        Bác sĩ kiểm tra tay cho một bệnh nhi.

        Bé trai được phẫu thuật thẩm mỹ, tái hiện chức năng bàn tay tại Bệnh viện FV. Theo bác sĩ Phương đang giảng dạy tại Trường Cao đẳng Y Dược Nam Định, trường hợp này là dị tật bẩm sinh, gọi là “bàn tay soi gương’’ (mirror hand).

        Bác sĩ cho biết tay trái bệnh nhi mang 8 ngón, chia cho hai bên đối xứng qua trục bàn tay, sở hữu gấp đôi số xương bàn tay. Nhưng bàn tay trái không có chức năng ngón cái, thiếu xương quay của cẳng tay và sở hữu đến hai xương trụ (người bình thường sở hữu một xương quay và 1 xương trụ).

        “Nguyên nhân dẫn đến dị tật chưa được xác định chính xác, nghi ngờ do biến đổi gen”

        Vì ko có ngón cái bệnh nhi này không thể cầm nắm, chỉ kẹp được các vật nhỏ, mất chức năng của bàn tay làm trẻ gặp khó khăn trong các sinh hoạt hằng ngày.

        Để khôi phục chức năng bàn tay, thẩm mỹ, bác sĩ đã loại bỏ 3 ngón thừa, nhỏ, ít chức năng. Đồng thời, ngón thứ ba (từ trái qua) được chuyển sang vị trí ngón thứ hai cũ để tạo thành ngón cái.

        Theo Bác sĩ đang giảng dạy tại Trường Đại Học Lương Thế Vinh cho hay điều khó khăn nhất là lựa chọn ngón cái mới, do phải xác định được hệ thống mạch máu, thần kinh và hệ cơ cho từng ngón tay. Bên cạnh đó, ê kíp phải tính toán kỹ lưỡng việc di chuyển ngón được chọn làm ngón cái đến vị trí mới tối ưu, xác định độ dài của ngón cái mới để tạo hình, đảm bảo thẩm mỹ và chức năng hoàn thiện của bàn tay. Riêng cánh tay, bé vẫn có thể co tay nên bác sĩ chưa xử lý phần này.

        Ca mổ đã diễn ra thành công Sức khỏe tốt, bệnh nhi tiếp tục được ghim đinh nhất quyết ngón tay trong 6 tuần. Sau đó, bé sẽ được hướng dẫn và dần làm quen với ngón cái và chức năng cầm nắm của bàn tay như bình thường.

        Đây là 1 trong số 21 trường hợp dị tật bàn tay , đa phần là trẻ em. Trường hợp nhỏ nhất mới 2 tuổi, được chưng sĩ Guero phẫu thuật tại Bệnh viện FV trong 7 ngày trở lại Việt Nam.

        Exit mobile version