Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Bác sĩ bị ngưng tim, ngưng thở 2 lần được đồng nghiệp cứu sống ngoạn mục

Đang lúc trực ở bệnh viện, bác sĩ T. (53 tuổi) bất ngờ tím tái, co giật và bị ngưng tim, ngưng thở. Nhờ được đồng nghiệp hồi sức kịp thời can thiệp chính xác, bác sĩ T đã thoát khỏi “lưỡi hái tử thần”, hồi phục kỳ diệu mà không để lại di chứng não.

Trước đó, khi đang trực, bác sĩ T. bất ngờ tím tái, co giật rồi rơi vào tình trạng ngưng tim, ngưng thở. Đồng nghiệp lập tức tiến hành hồi sức tim phổi (CPR). Sau gần 60 phút nỗ lực, tim bác sĩ T. mới đập trở lại. Ngay sau đó, ông được chuyển khẩn đến Bệnh viện S.I.S Cần Thơ để điều trị can thiệp mạch vành.

Tuy nhiên, trên đường chuyển viện, bệnh nhân tiếp tục ngưng tim, ngưng thở lần thứ hai. May mắn, kíp cấp cứu vẫn hồi sức thành công.

Tại S.I.S Cần Thơ, kết quả điện tim cho thấy, bác sĩ T. bị nhồi máu cơ tim kèm biến chứng rối loạn nhịp nguy hiểm. Kết quả chụp mạch vành qua hệ thống DSA cho thấy cả 3 nhánh mạch vành hẹp nặng, phức tạp, nhưng mạch máu đã tự tái thông dòng chảy.

BS.CKII Nguyễn Mạnh Cường (thứ 2 từ trái) chúc mừng bác sĩ T., đã hồi phục không di chứng. Ảnh: BVCC

BS.CKII Nguyễn Mạnh Cường – Phó khoa Nội Tổng hợp cho biết: “Dù tim đã có tín hiệu trở lại nhưng tình trạng nội khoa của bác sĩ T. rất nguy kịch: hôn mê sâu, suy hô hấp, suy đa tạng, tăng men gan, hạ kali máu, choáng tim, huyết áp thấp phải dùng vận mạch liều cao. Chúng tôi quyết định điều trị nội khoa tích cực tại ICU để ổn định trước khi can thiệp đặt stent mạch vành”.

Được biết, khoảng 2 ngày trước khi xảy ra ngưng tim, ngưng thở, bác sĩ T. có biểu hiện sốt và rét run. 

Để xác định chính xác nguyên nhân ngưng tim, có thể do viêm cơ tim, sốc nhiễm trùng hay nhồi máu cơ tim, các bác sĩ đã chỉ định chụp MRI tim. Kết quả cho thấy tổn thương cơ tim bắt nguồn từ tình trạng hẹp nặng động mạch vành bên phải.

“Kíp can thiệp đã tiến hành đặt stent tái thông thành công một nhánh động mạch vành bị hẹp. Sau 2 tuần điều trị tích cực, bệnh nhân hồi phục tốt, tỉnh táo, không di chứng não. Các tổn thương mạch vành còn lại sẽ được can thiệp ở giai đoạn tiếp theo”, BS Cường chia sẻ thêm.

Cũng theo BS.CKII Nguyễn Mạnh Cường, may mắn là bác sĩ T. bị ngưng tim ngay tại bệnh viện, được hồi sức tim phổi kịp thời và đúng kỹ thuật, nên não không bị tổn thương. Nếu tình huống này xảy ra ngoài cộng đồng, không được phát hiện và xử trí nhanh, nguy cơ tử vong hoặc di chứng thần kinh là rất cao.

“Cấp cứu tim mạch cần một chuỗi hiệu quả: Phát hiện sớm – hồi sức kịp thời – chuyển viện an toàn – can thiệp chính xác. Khi các khâu được thực hiện nhịp nhàng, cơ hội sống sót cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp, kể cả khi đã ngưng tim, sẽ được nâng lên đáng kể”, bác sĩ Cường cho biết thêm. 

Nguồn: suckhoedoisong.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Ung thư ngày càng trẻ hoá, y học hạt nhân mở hướng mới trong chẩn đoán sớm, điều trị

Ung thư là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu và tại Việt Nam. Việt Nam ghi nhận hơn 182.000 ca mắc mới ung thư và trên 122.000 ca tử vong mỗi năm (GLOBOCAN 2022). Ung thư phổi, gan, vú, dạ dày và đại trực tràng vẫn là những loại phổ biến và có tỷ lệ tử vong cao.

Những thông tin trên được các chuyên gia ung bướu nhấn mạnh tại hội nghị “Cập nhật điều trị ung thư và y học hạt nhân” do Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu (BV Bạch Mai) tổ chức hôm nay, 16/8 với sự tham dự của khoảng 1.000 chuyên gia y tế trong nước đến tư BV Bạch Mai, BV K, BV Ung bướu TP Hồ Chí Minh, BV Đại học Y Hà Nội, BV TWQĐ 108, BV Chợ Rẫy,… và các chuyên gia đến từ các nước có nền y học tiên tiến như Đài Loan (Trung Quốc), Nhật Bản…

PGS.TS Đào Xuân Cơ – Giám đốc BV Bạch Mai phát biểu.

Cá thể hóa điều trị, lựa chọn phác đồ phù hợp với từng người bệnh ung thư

PGS.TS Đào Xuân Cơ, Giám đốc BV Bạch Mai trong phát biểu tại hội nghị nhấn mạnh: Những con số về tình hình bệnh ung thư tại Việt Nam rất đáng báo động, đòi hỏi hệ thống y tế không ngừng nâng cao năng lực chẩn đoán, điều trị và chăm sóc.

Cùng đó, việc ứng dụng các kỹ thuật chẩn đoán và điều trị tiên tiến trở thành yếu tố sống còn để nâng cao hiệu quả điều trị và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân.

Bổ sung thêm thông tin, PGS.TS Phạm Cẩm Phương – Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu cho hay, y học hạt nhân đóng vai trò then chốt trong chẩn đoán sớm và theo dõi đáp ứng điều trị ung thư thông qua các kỹ thuật ghi hình chức năng như PET/CT và SPECT/CT, SPECT.

Phương pháp này cho phép đánh giá chuyển hóa tế bào ung thư ngay cả khi chưa có tổn thương hình thái, giúp phát hiện di căn sớm và chính xác.

Trong điều trị, các liệu pháp phóng xạ nhắm trúng đích như I-131, Lu-177, hay theranostic – là phương pháp sử dụng cùng một phân tử cho cả ghi hình và điều trị, theranostic cho phép xác định chính xác vị trí tổn thương và đánh giá đáp ứng điều trị theo thời gian thực, góp phần tiêu diệt tế bào ung thư mà ít ảnh hưởng đến mô lành.

“Nhờ đó y học hạt nhân hỗ trợ cá thể hóa điều trị, lựa chọn phác đồ phù hợp với từng người bệnh dựa trên đặc điểm sinh học của từng khối u. Có thể nói đây là lĩnh vực tiên phong trong y học chính xác, góp phần nâng cao hiệu quả điều trị và cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân ung thư”- PGS.TS Phạm Cẩm Phương cho biết.

PGS.TS Phạm Cẩm Phương – Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, BV Bạch Mai tham luận.

Sẽ có thêm thiết bị chẩn đoán, điều trị ung thư hiện đại phục vụ người bệnh

GS.TS Mai Trọng Khoa, nguyên Phó Giám đốc BV Bạch Mai chia sẻ số ca mắc ung thư ở Việt Nam ngày càng cao, tỷ lệ chết do ung thư cũng gia tăng. Nguyên nhân có thể do tuổi thọ tăng, dân số đang già hóa, tỷ lệ người già ngày càng cao.

Trước đây, nhiều loại ung thư không phát hiện được từ sớm, chỉ khi bệnh nhân đau đớn, sụt cân mới đi khám thì hầu hết đã ở giai đoạn muộn, việc điều trị khó khăn, tỷ lệ tử vong cao.

Nhưng ngày nay, chúng ta đã có rất nhiều tiến bộ trong chẩn đoán ung thư như PET/CT và SPECT/CT, SPECT, giúp chúng ta phát hiện sớm các dấu hiệu ung thư từ khi các tổn thương rất nhỏ.

Các thế hệ máy PET/CT không ngừng phát triển. Máy PET/CT phổ biến trước đây chỉ chụp được 20–35 cm trên cơ thể, phải ghép hình lại để đánh giá toàn thân.

Hiện nay, đã có máy chụp tới 106 cm và đặc biệt là loại chụp toàn thân chỉ trong 30 giây với liều phóng xạ thấp, an toàn cho trẻ em, người bình thường. Tốc độ nhanh giúp một ngày có thể chụp 50–80 người, giải phóng bệnh nhân khỏi chờ lâu.

Máy thế hệ cũ do chỉ chụp từ háng trở lên, nên có thể bỏ qua các u di căn và không phát hiện được tổn thương mới. Máy thế hệ mới khắc phục nhược điểm này, hiệu quả trong chẩn đoán và điều trị ung thư.

Ngoài ung thư, PET/CT đời mới còn ứng dụng trong tim mạch, thần kinh, chẩn đoán viêm, nhiễm trùng ở mức độ tế bào, nghiên cứu tương tác giữa não và cơ thể, dược động học toàn cơ thể để phát triển thuốc, độc chất học.

GS.TS Mai Trọng Khoa, nguyên Phó Giám đốc BV Bạch Mai chia sẻ tại hội nghị.

Hội nghị Cập nhật điều trị Ung thư và Y học hạt nhân tại Bệnh viện Bạch Mai ngoài 3 phiên đào tạo liên tục về các chủ đề miễn dịch liệu pháp trong ung thư phổi, ung thư đường tiêu hóa và ứng dụng y học hạt nhân trong chẩn đoán và điều trị ung thư, có thêm 7 phiên chuyên đề đi sâu vào chia sẻ, cập nhật các tiến bộ mới về điều trị trong các bệnh lý ung thư cụ thể như ung thư vú, ung thư tiêu hóa, ung thư phổi và kỹ thuật xạ trị, y học hạt nhân; Vai trò vượt trội của các kỹ thuật PET/CT, SPECT/CT, SPECT và các chất đánh dấu phóng xạ trong chẩn đoán sớm và theo dõi điều trị các bệnh lý ung thư…

Giám đốc Đào Xuân Cơ cho biết Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu luôn tiên phong ứng dụng các kỹ thuật hiện đại về cả y học hạt nhân, sinh học phân tử và giải trình tự gene, các liệu pháp mới ứng dụng trong điều trị cho người bệnh ung thư

“Không chỉ dẫn đầu trong điều trị, Trung tâm còn là cơ sở đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và nghiên cứu khoa học có uy tín, góp phần đưa Y học hạt nhân Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới”- PGS.TS Đào Xuân Cơ nhấn mạnh.

Một thông tin tích cực cho người bệnh ung thư là BV Bạch Mai đang đấu thầu mua sắm hàng loạt máy móc hiện đại để phục vụ nâng chất lượng chẩn đoán, điều trị, trong đó có mục tiêu đưa loại PET/CT tiên tiến nhất về bệnh viện.

Nguồn: suckhoedoisong.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Người phụ nữ nguy kịch vì thuyên tắc phổi do dùng thuốc tránh thai phối hợp liên tục trong thời gian dài

Sử dụng thuốc tránh thai phối hợp liên tục hơn 10 năm, người phụ nữ nguy kịch vì bị sốc tắc nghẽn do thuyên tắc phổi nguy cơ cao, huyết khối tĩnh mạch khoeo hai bên.

Ngày 17/8, Bệnh viện Nhân dân 115 (TPHCM) cho biết, bệnh viện vừa tiếp nhận và điều trị thành công bước đầu cho một trường hợp thuyên tắc phổi nguy kịch – biến chứng tim mạch hiếm gặp có thể đe doạ tính mạng liên quan đến việc sử dụng thuốc tránh thai phối hợp kéo dài.

Theo đó, đêm 11/08, nữ bệnh nhân nữ 45 tuổi nhập Bệnh viện Nhân dân 115 trong tình trạng khó thở dữ dội, nặng ngực và choáng váng.

Khai thác bệnh sử được biết, bệnh nhân có tiền sử sử dụng thuốc tránh thai dạng phối hợp (28 viên) liên tục hơn 10 năm.

Bệnh nhân nguy kịch do thuyên tắc phổi do sử dụng thuốc tránh thai kéo dài.

Tại bệnh viện, bác sĩ ghi nhận người bệnh tụt huyết áp, có dấu hiệu sốc nặng. Điện tâm đồ và siêu âm tim cho thấy hình ảnh gợi ý tình trạng quá tải cấp tính tim phải – dấu hiệu thường gặp trong thuyên tắc phổi cấp nặng.

Ngay lập tức, người bệnh được chuyển đến khoa Hồi sức tích cực và Chống độc để được điều trị chuyên sâu, dự kiến can thiệp ECMO nếu cần.

Sau khi hội chẩn liên khoa các bác sĩ chẩn đoán xác định bệnh nhân bị sốc tắc nghẽn do thuyên tắc phổi nguy cơ cao, huyết khối tĩnh mạch khoeo hai bên, có yếu tố nguy cơ là sử dụng thuốc tránh thai phối hợp lâu năm.

Bên cạnh đó, do bệnh nhân làm công nhân may phải ngồi lâu góp phần vào yếu tố nguy cơ hình thành huyết khối tĩnh mạch và thuyên tắc phổi.

Các bác sĩ quyết định sử dụng thuốc tiêu sợi huyết nhằm làm tan cục máu đông đang bít tắc mạch máu phổi.

Sau khi truyền xong thuốc 1 giờ, người bệnh bắt đầu hồi phục rõ rệt, tỉnh táo, hết khó thở, ngực nhẹ hơn, huyết áp cải thiện, thuốc vận mạch được giảm liều đáng kể. Siêu âm tim kiểm tra lại cho thấy chức năng tim phải cải thiện rõ rệt.

Đến nay, người bệnh đã gần như trở về bình thường, tự thở khí phòng, huyết áp ổn định, không cần thuốc vận mạch và tiếp tục sử dụng thuốc kháng đông. Người bệnh tiếp tục được theo dõi chặt chẽ tại khoa Hồi sức tích cực và Chống độc để được quản lý tối ưu bệnh lý huyết khối trước khi ra viện. Đồng thời, người bệnh cũng sẽ được gửi khám bác sĩ chuyên khoa Sản để được tư vấn phương pháp tránh thai khác ít nguy cơ huyết khối hơn.

Thuốc tránh thai phối hợp (chứa estrogen và progestin) là một trong những biện pháp tránh thai phổ biến và hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chứng minh estrogen trong thuốc có thể làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi, đặc biệt ở những phụ nữ sử dụng kéo dài, hút thuốc lá, béo phì hoặc có bệnh lý nền tim mạch.

Hiện nay, ngoài thuốc tránh thai phối hợp, phụ nữ có thể lựa chọn nhiều biện pháp tránh thai khác với mức độ an toàn cao hơn, tùy tình trạng sức khỏe:

  • Thuốc tránh thai chỉ chứa progestin: dạng viên uống hàng ngày, que cấy tránh thai hoặc vòng tránh thai nội tiết. Do không chứa estrogen, nguy cơ huyết khối thấp hơn đáng kể.

  • Vòng tránh thai bằng đồng: không ảnh hưởng đến hệ đông máu, phù hợp cho phụ nữ có nguy cơ huyết khối hoặc chống chỉ định với nội tiết.

  • Bao cao su: vừa tránh thai hiệu quả, vừa phòng tránh bệnh lây truyền qua đường tình dục.

  • Tiêm thuốc tránh thai progestin, triệt sản nam/nữ hoặc phương pháp tính ngày an toàn: tuỳ nhu cầu và điều kiện cá nhân.

Việc lựa chọn biện pháp tránh thai cần được cá thể hoá và có sự tư vấn từ bác sĩ chuyên khoa Sản. Các yếu tố như tuổi, tiền sử bệnh tim mạch – huyết khối, hút thuốc, béo phì, tiểu đường hay bệnh gan cần được cân nhắc kỹ lưỡng trước khi dùng thuốc tránh thai nội tiết kéo dài.

Bác sĩ cảnh báo, tuyệt đối không nên tự ý sử dụng thuốc tránh thai kéo dài mà không có chỉ định và theo dõi của bác sĩ. Hãy trao đổi với bác sĩ chuyên khoa để chọn phương pháp tránh thai phù hợp, vừa hiệu quả, vừa đảm bảo an toàn sức khỏe lâu dài.

Nguồn: suckhoedoisong.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Người đàn ông bị tổn thương thận, xuất huyết não sau khi bỏ thuốc điều trị huyết áp

Ông N. từng bị tăng huyết áp, xuất huyết não cách đây 10 năm để lại di chứng yếu nửa người và rối loạn ngôn ngữ. Sau một thời gian điều trị, ông N. tự ý ngừng thuốc và ông vừa phải nhập viện với chẩn đoán xác định nhiễm toan ceton-đái tháo đường type 2, tăng huyết áp, xuất huyết não, có dấu hiệu tổn thương chức năng thận.

Bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. (Ảnh minh họa)

Khoa Cấp cứu – Bệnh viện Nội tiết Trung ương vừa tiếp nhận bệnh nhân nam H.V. N, 51 tuổi ở Hà Nội, nhập viện trong tình trạng tăng đường huyết và ceton niệu dương tính.

Khai thác tiền sử cho thấy, bệnh nhân N. bị tăng huyết áp, xuất huyết não cách đây 10 năm và để lại di chứng yếu nửa người phải và rối loạn ngôn ngữ. Bệnh nhân đang điều trị nhưng không tuân thủ hướng dẫn điều trị của bác sĩ dùng thuốc một năm sau đó tự ý ngừng thuốc. Trước đây, bệnh nhân có thói quen hút thuốc lá 1 bao/ngày và uống 200ml rượu mỗi ngày, liên tục trong 20 năm. Bệnh nhân chỉ bỏ hoàn toàn thói quen sinh hoạt không lành mạnh này sau khi đột quỵ xảy ra.

Khoảng một tuần trước nhập viện, bệnh nhân N. thấy người mệt mỏi và bắt đầu xuất hiện triệu chứng khát nước, uống nhiều, tiểu nhiều. Ngày 4/8, bệnh nhân được gia đình đưa vào một bệnh viện lớn tại Hà Nội khi có dấu hiệu mệt mỏi nhiều hơn, đau nhức bụng, khó thở kèm theo buồn nôn và nôn nhiều lần.

Tại đây, bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm toan ceton do đái tháo đường, tăng huyết áp, xuất huyết não di chứng yếu nửa người phải, được bù dịch và dùng insulin trước khi chuyển đến Bệnh viện Nội tiết Trung ương.

Tại thời điểm nhập viện, bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc được nhưng nói khó. Huyết áp 120/70mmHg, mạch 80 lần/phút. Bệnh nhân yếu nửa người phải, cơ lực 3/5, giảm phản xạ gân xương, đường huyết đo được là 20,4 mmol/l…

Thạc sĩ, bác sĩ Bùi Mạnh Tiến, Khoa Cấp cứu (Bệnh viện Nội tiết Trung ương) cho biết: “Các kết quả xét nghiệm máu cho thấy đường huyết bệnh nhân đã tăng từ rất lâu trước đó mà không được phát hiện và đang có dấu hiệu tổn thương chức năng thận. Cận lâm sàng ghi nhận điện tim bình thường, X-quang ngực và siêu âm ổ bụng không có bất thường, chức năng tim bảo tồn với EF 63%. Ngoài ra bệnh nhân đã được làm xét nghiệm chuyên sâu để chẩn đoán phân loại đái tháo đường”.

Người bệnh được chẩn đoán xác định: Nhiễm toan ceton-đái tháo đường type 2- tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và di chứng đột quỵ xuất huyết não cũ. Tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương, bệnh nhân được điều trị tích cực bằng bù dịch, cân bằng điện giải, tiêm insulin, kiểm soát huyết áp và thuốc hạ mỡ máu.

Bác sĩ Bùi Mạnh Tiến cho biết thêm, hiện tại, bệnh nhân N. tỉnh táo, tiếp xúc tốt, không sốt, không đau đầu, không khó thở, huyết động ổn định, chức năng thận đã phục hồi và về bình thường. Sức cơ nửa người phải cải thiện dần, bệnh nhân đang được theo dõi và điều trị tiếp tục tại khoa.

Bác sĩ Tiến khuyến cáo, tăng huyết áp và bệnh đái tháo đường là hai bệnh lý có mối liên hệ mật thiết với nhau, thường xảy ra đồng thời và có thể làm tăng nguy cơ mắc các biến chứng nguy hiểm. Để ngăn ngừa lâu dài các biến chứng, người bệnh nhất thiết phải kiểm soát tốt huyết áp, đường huyết ổn định bằng cách áp dụng lối sống khoa học và tuân thủ thuốc điều trị của bác sĩ.

Đặc biệt theo lời khuyên của bác sĩ, người trưởng thành cần thường xuyên đo kiểm tra đường huyết, huyết áp đúng cách để phát hiện sớm bệnh. Không tự ý dừng thuốc, thay đổi thuốc, tăng hoặc giảm liều.

Đối với người bệnh phải có chế độ ăn hợp lý, cần hạn chế uống rượu, bia, ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào, tăng cường tập thể dục… khi thấy có các dấu hiệu bất thường phải tới ngay cơ sở y tế để được kiểm tra và điều trị kịp thời.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Khẩn trương, gấp rút hoàn tất công tác chuẩn bị cho Lễ khánh thành Bệnh viện Nhi Trung ương cơ sở 2, chào mừng kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Bệnh viện Nhi Trung ương cơ sở 2 sẽ khánh thành vào ngày 19/8/2025 và đi vào hoạt động ngay sau đó

     Trong những ngày qua, không khí tại Bệnh viện Nhi Trung ương cơ sở 2 trở nên sôi nổi và khẩn trương hơn bao giờ hết. Công tác chuẩn bị cho Lễ khánh thành được triển khai đồng bộ và bài bản từ hoàn thiện cảnh quan, lắp đặt trang thiết bị đến rà soát, sắp xếp khu vực phòng khám, khu điều trị và hệ thống cơ sở vật chất kèm theo. 

Các hạng mục được khẩn trương, gấp rút hoàn tất bất kể ngày đêm để chuẩn bị cho Lễ khánh thành và đi vào hoạt động của Bệnh viện Nhi Trung ương cơ sở 2

Hàng trăm cán bộ, kỹ sư, công nhân thuộc các đơn vị thi công, đơn vị kỹ thuật, hậu cần đang tập trung cao độ, làm việc miệt mài ngày đêm để hoàn thành từng chi tiết cuối cùng. Song song với đó, các cán bộ Bệnh viện Nhi Trung ương trực tiếp giám sát, theo dõi tiến độ và nghiệm thu từng hạng mục. Sự phối hợp chặt chẽ này nhằm đảm bảo mọi khâu được hoàn chỉnh với chất lượng tốt nhất khi đi vào vận hành, sẵn sàng tiếp nhận và phục vụ người bệnh.

Hệ thống máy móc, thiết bị y tế hiện đại tại các khoa, phòng đã sẵn sàng hoạt động

Hệ thống máy móc, thiết bị y tế hiện đại tại các khoa, phòng đã sẵn sàng hoạt động. Nhiều thiết bị tiên tiến hàng đầu trong lĩnh vực Nhi khoa như: Hệ thống xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, hồi sức cấp cứu, hệ thống phòng mổ,… đã được vận hành thử nghiệm, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu an toàn kỹ thuật và chuyên môn theo quy định của Bộ Y tế.

 Với 300 giường bệnh nội trú được bố trí khoa học trong không gian rộng rãi, tiện nghi, đáp ứng nhu cầu chăm sóc và điều trị dài ngày cho bệnh nhi và gia đình.

Khu vực ngoại trú cũng được hoàn thiện với khu vực tiếp đón, phòng khám, phòng cấp cứu được trang bị đầy đủ thiết bị cần thiết để tiếp nhận và xử trí kịp thời các ca bệnh ngay từ những ngày đầu hoạt động. Một hạng mục quan trọng khác là kho dược và vật tư y tế. Toàn bộ thuốc và vật tư y tế thiết yếu đã được nhập kho, sắp xếp và bảo quản theo đúng quy định.

Nhà thuốc Bệnh viện Nhi Trung ương cơ sở 2 cũng đã sẵn sàng đi vào hoạt động đảm bảo cung cấp đầy đủ thuốc cho người bệnh.

Cùng với cơ sở vật chất, nguồn nhân lực chuyên môn cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng. Các chuyên gia, bác sĩ đầu ngành từ cơ sở 1 sẽ được luân phiên đảm nhiệm công tác tại cơ sở 2, đảm bảo mọi bệnh nhi khi đến cơ sở 2 đều được tiếp cận dịch vụ y tế và chuyên môn tương đương cơ sở 1, mang lại sự yên tâm cho các gia đình, đồng thời tạo sự liên thông và thống nhất trong quy trình điều trị.

Bệnh viện Nhi Trung ương cơ sở 2 với đội ngũ y bác sĩ giàu kinh nghiệm và cơ sở hạ tầng hiện đại đã sẵn sàng đi vào hoạt động.

Tọa lạc tại xã Kiều Phú, Thành phố Hà Nội, cơ sở 2 của Bệnh viện Nhi Trung ương được đầu tư hơn 880 tỷ đồng, có tổng diện tích khu đất khoảng 6 hecta, trong đó, diện tích xây dựng công trình khoảng 7.530m2, gồm 1 khối hành chính, 1 khối cận lâm sàng, 2 khối điều trị nội trú cao 5 tầng, 01 tầng hầm, cùng các hạng mục hạ tầng kỹ thuật đồng bộ kèm theo.

Cơ sở 2 của Bệnh viện được tổ chức với 11 khoa lâm sàng, 4 khoa cận lâm sàng và 1 đơn vị chức năng, bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ cấp cứu, khám chữa bệnh và phục hồi chức năng cho trẻ em.

Với sự chuẩn bị toàn diện về cơ sở vật chất, nhân lực và quy trình chuyên môn, Bệnh viện Nhi Trung ương cơ sở 2 sẽ nhanh chóng đi vào hoạt động ổn định, góp phần giảm tải cho cơ sở 1, đồng thời mang đến cho trẻ em một môi trường chăm sóc sức khỏe hiện đại, an toàn và nhân văn./.

 

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Sẵn sàng cho Lễ khánh thành Bệnh viện Phụ Sản Trung ương cơ sở 2, chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9

Bệnh viện Phụ Sản Trung ương Cơ sở 2 sẽ khánh thành vào ngày 19/8/2025

tại xã Kiều Phú, TP Hà Nội

       Cơ sở 2 của Bệnh viện Phụ Sản Trung ương được đầu tư với tổng kinh phí khoảng 950 tỷ đồng, xây dựng trên khu đất gần 60.000 m², trong đó diện tích xây dựng hơn 8.400 m². Công trình gồm 6 tầng nổi, 1 tầng kỹ thuật và 1 tầng tum, được thiết kế theo phong cách hiện đại, tối ưu công năng sử dụng, thân thiện với môi trường và thuận tiện cho người bệnh.Theo quy hoạch, bệnh viện có quy mô 300 giường nội trú, tiếp nhận khoảng 1.000 lượt khám mỗi ngày.

       Tổ chức chuyên môn tại cơ sở 2 bao gồm 11 khoa lâm sàng, 4 khoa cận lâm sàng, cùng nhiều phòng chức năng hỗ trợ như phòng điều phối, chăm sóc khách hàng, nhà thuốc, kho dược, hậu cần kỹ thuật… Bệnh viện được bố trí linh hoạt để phục vụ cả nhu cầu điều trị nội trú dài ngày lẫn khám ngoại trú chất lượng cao.

Công tác hoàn thiện và chuẩn bị vận hành Bệnh viện Phụ Sản Trung ương cơ sở 2
được triển khai khẩn trương và có lộ trình cụ thể.

      Công tác hoàn thiện và chuẩn bị vận hành cơ sở mới được triển khai khẩn trương và có lộ trình cụ thể. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Ban Giám đốc, từng khu vực chức năng – từ phòng khám, phòng mổ, khu điều trị cho đến các bộ phận kỹ thuật và hậu cần – đều được rà soát, hiệu chỉnh theo đúng tiêu chuẩn chuyên ngành, bảo đảm chất lượng, yếu tố kiểm soát nhiễm khuẩn, an toàn người bệnh và phòng cháy chữa cháy trong giai đoạn đưa vào sử dụng từng phần.

      Về tổng thể, công trình mang kiến trúc hiện đại, thân thiện với môi trường, tối ưu công năng sử dụng. Trang thiết bị y tế được đầu tư đồng bộ, phục vụ toàn diện từ khâu chẩn đoán, điều trị đến hồi phục. Hệ thống điều hành bệnh viện ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, hướng tới mô hình bệnh viện thông minh – xanh – số hóa.

      Cùng với cơ sở hạ tầng, đội ngũ cán bộ y tế đã được điều chuyển và bố trí hợp lý. Nhiều nhân sự có chuyên môn cao, dày dạn kinh nghiệm được giao nhiệm vụ tại cơ sở mới. Các bộ phận chuyên môn, cận lâm sàng, hành chính – hậu cần đều phối hợp để từng bước vận hành bệnh viện hiệu quả, an toàn và linh hoạt theo từng giai đoạn.

     Bên cạnh việc nâng cao năng lực chuyên môn, mô hình tổ chức tại đây cũng hướng đến việc cải thiện trải nghiệm người bệnh. Các phòng chức năng như trung tâm điều phối, phòng chăm sóc khách hàng… được thiết lập nhằm đảm bảo phục vụ bệnh nhân một cách toàn diện và nhân văn.

Công tác chuẩn bị khánh thành Bệnh viện Phụ Sản Trung ương cơ sở 2 đã hoàn tất

       Việc khai trương Cơ sở 2 đúng dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025) là dấu mốc quan trọng đối với Bệnh viện Phụ Sản Trung ương. Đây không chỉ là công trình chào mừng một sự kiện lớn của đất nước, mà còn thể hiện quyết tâm đổi mới, nâng cao chất lượng y tế, lấy người bệnh làm trung tâm, vì một hệ thống chăm sóc sức khỏe công bằng, hiện đại và hiệu quả hơn./.

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Phẫu thuật giải ép thành công dây thần kinh số 9, 10 bằng phương pháp nội soi

Việc phẫu thuật bằng phương pháp nội soi giải ép cho bệnh nhân tổn thương dây thần kinh số 9 và 10, các bác sĩ đã bảo tồn tối đa dây thần kinh và không để lại di chứng.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đồng Văn Hệ thăm khám người bệnh sau phẫu thuật.

Bệnh nhân N.H.N (65 tuổi, Hải Phòng) bị đau vùng tai phải và góc hàm từ năm 2021. Trong suốt 4 năm, bệnh nhân đã thăm khám tại nhiều bệnh viện tuyến tỉnh và Trung ương nhưng không tìm được nguyên nhân chính xác, điều trị bằng thuốc không hiệu quả.

Khi đến khám tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, bệnh nhân trong tình trạng đau dữ dội vùng sau tai bên phải và góc hàm, không có biểu hiện đau trong miệng, lưỡi hay họng. Đây là dạng đau không điển hình, khác với các trường hợp đau mặt phổ biến như đau nửa mặt do chèn ép dây thần kinh số 5 hay co giật cơ mặt do tổn thương dây số 7.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đồng Văn Hệ – Phó Giám đốc Bệnh viện, Giám đốc Trung tâm Phẫu thuật Thần kinh, Trưởng khoa Phẫu thuật Thần kinh I cho biết, trường hợp bệnh nhân này có biểu hiện đau đặc trưng tại vùng tai và góc hàm là dấu hiệu nghi ngờ tổn thương dây thần kinh số 9 và 10. Tuy nhiên, trên hình ảnh cộng hưởng từ không phải lúc nào cũng thấy rõ tổn thương. Việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng.

Trước đó, bệnh nhân đã được điều trị theo hướng dùng thuốc chống động kinh – phác đồ thường áp dụng cho các loại đau dây thần kinh. Tuy nhiên, suốt 4 năm dùng thuốc không giảm đau, khiến người bệnh mệt mỏi, stress, đau tăng khi ăn, nói chuyện, thậm chí chỉ cần một làn gió thổi qua cũng gây cơn đau nhói.

Hiện nay, bệnh lý này được điều trị phẫu thuật bằng hai phương pháp chính là cắt dây thần kinh 9, 10 chọn lọc hoặc mổ giải ép. Trong trường hợp này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đồng Văn Hệ trực tiếp phẫu thuật bằng phương pháp nội soi giải ép, ưu điểm bảo tồn tối đa dây thần kinh 9, 10 và không để lại di chứng.

Ca phẫu thuật được thực hiện qua một đường rạch nhỏ phía sau tai. Khi mở màng cứng, các bác sĩ phát hiện động mạch tiểu não sau dưới đang chèn ép từ phía trước, đẩy dây thần kinh số 9 và 10 ra sau. Ê-kíp đã tiến hành tách động mạch này ra, đưa về phía trước và đệm mạch nhân tạo, bảo tồn hoàn toàn các dây thần kinh.

Kết quả sau mổ bệnh nhân gần như hết hoàn toàn cơn đau (giảm trên 90%), chỉ còn nói hơi khàn – biến chứng tạm thời do dây thần kinh số 9 và 10 có liên quan đến chức năng thanh âm.

Vợ bệnh nhân chia sẻ: “Từ năm 2021, bác cứ đau giật từng cơn, đi khám khắp nơi, soi họng, tai, cằm, đều không phát hiện bất thường. Bác sĩ bảo không có khối u. Chúng tôi cũng từng nghĩ là bệnh dây thần kinh nhưng ở bệnh viện tư không phát hiện được gì, uống thuốc mãi không đỡ. Đến khi về Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức mới biết là do mạch máu chèn vào dây thần kinh”.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đồng Văn Hệ khuyến cáo: Với những cơn đau khu trú vùng tai, góc hàm, lưỡi… không rõ nguyên nhân cần được khám bởi bác sĩ chuyên ngành ngoại hoặc nội thần kinh, tránh nhầm lẫn với các bệnh lý răng hàm mặt hoặc tai mũi họng thông thường, từ đó có hướng điều trị đúng và kịp thời.

Nguồn: nhandan.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Bệnh do RSV đe doạ nghiêm trọng sức khoẻ của trẻ, mỗi năm gây ra 3 triệu ca nhập viện

Theo các nghiên cứu khoa học, nhiễm trùng đường hô hấp dưới do virus hợp bào hô hấp (RSV) đang ngày càng trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe trẻ em trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam.

RSV là tác nhân gây bệnh phổ biến khiến trẻ dưới 1 tháng tuổi phải nhập viện

Trên toàn cầu, mỗi năm RSV gây ra hơn 3 triệu ca nhập viện và gần 60.000 ca tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi. Đáng chú ý, RSV là tác nhân gây ra hơn 80% các trường hợp nhiễm trùng đường hô hấp dưới cấp tính ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi.

TS.BS Cao Việt Tùng – Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương cho rằng sự ra đời của liệu pháp dự phòng RSV bằng kháng thể đơn dòng tái tổ hợp là một bước tiến vượt bậc trong y học nhi khoa.

Những thông tin được các chuyên gia nhấn mạnh tại hội nghị khoa học với chủ đề “Hành trình 27 năm phòng ngừa RSV – Vai trò của kháng thể đơn dòng trong bảo vệ trẻ có nguy cơ cao khỏi RSV” vừa diễn ra tại Hà Nội.

Theo các chuyên RSV là tác nhân gây bệnh phổ biến khiến trẻ dưới 1 tháng tuổi phải nhập viện. Nguyên nhân là do hệ miễn dịch của trẻ chưa trưởng thành, đường thở nhỏ dễ bị tắc nghẽn và viêm phù nề. Do vậy, không chỉ giai đoạn sơ sinh mà trong những tháng đầu sau sinh, trẻ nhiễm RSV sẽ dễ bị nặng.

Đặc biệt, trẻ sinh non có nguy cơ nhiễm trùng đường hô hấp dưới cấp tính do nhiễm RSV cao hơn đáng kể so với trẻ đủ tháng. Sinh non ở tuần thai càng thấp, nguy cơ nhập viện do RSV càng cao, kéo theo chi phí điều trị liên quan đến nhập viện cũng tăng lên.

Đối với trẻ dưới 24 tháng tuổi, trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh có rối loạn huyết động có nguy cơ nhập viện do nhiễm RSV cao gấp 2,7-5 lần, và trẻ bị loạn sản phế quản phổi có nguy cơ nhập viện do nhiễm RSV cao gấp 12,8-20 lần. Những con số đáng báo động này không chỉ phản ánh nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khỏe trẻ em mà còn tạo áp lực không nhỏ lên hệ thống y tế.

Các chuyên gia thảo luận tại hội nghị về giải pháp nào để bảo vệ trẻ sinh non, nguy cơ cao trước sự ‘tấn công’ của RSV.

Giải pháp nào để bảo vệ trẻ sinh non, nguy cơ cao trước sự ‘tấn công’ của RSV?

Trong khuôn khổ hội nghị, các chuyên gia đã tập trung thảo luận về những giải pháp điều trị mới nhằm giảm tử vong trên trẻ em, cụ thể là liệu pháp dự phòng miễn dịch đột phá bằng kháng thể đơn dòng sẽ giúp ngăn chặn quá trình hòa màng và ức chế sự sao chép RSV, từ đó giảm sự nhân lên của virus, ngăn chặn sự lây lan RSV trên các bệnh nhi.

Với cơ chế trên, giải pháp tiên tiến này mang đến cơ chế bảo vệ chủ động, giúp ngăn ngừa hiệu quả bệnh hô hấp nghiêm trọng do RSV gây ra ở nhóm trẻ có nguy cơ cao bao gồm trẻ sinh non, trẻ mắc bệnh loạn sản phế quản phổi và trẻ bệnh tim bẩm sinh.

TS.BS Cao Việt Tùng – Phó Giám Đốc Bệnh viện Nhi Trung ương cho rằng sự ra đời của liệu pháp dự phòng RSV bằng kháng thể đơn dòng tái tổ hợp là một bước tiến vượt bậc trong y học nhi khoa.

Được kiểm chứng lâm sàng trên thế giới trong gần 30 năm qua, giải pháp này không chỉ mang lại hiệu quả bảo vệ cho trẻ em có nguy cơ cao mà còn mở ra hướng đi mới trong việc chủ động phòng ngừa các bệnh hô hấp nguy hiểm ở trẻ nhỏ.

Việc ứng dụng rộng rãi liệu pháp này sẽ giúp giảm thiểu gánh nặng cho cả gia đình và hệ thống y tế và quan trọng nhất là mang lại cơ hội phát triển khỏe mạnh cho các em trong tương lai.

Lãnh đạo Bệnh viện Nhi Trung ương cũng cho biết bệnh viện là một trong những bệnh viện công lập đầu tiên sử dụng liệu pháp này tại Việt Nam. Các bệnh nhi đáp ứng tích cực với thuốc và không có phản ứng sau tiêm.

Sự kiện đánh dấu bước tiến quan trọng trong hành trình phòng chống giảm gánh nặng nhiễm trùng đường hô hấp dưới tại Việt Nam. Được biết, hiện nay đã có gần 300 trẻ sinh non, nguy cơ cao được tiếp cận liệu pháp dự phòng này tại 30 bệnh viện trên 10 tỉnh thành cả nước.

Nguồn: suckhoedoisong.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Tăng cường tiếp cận thuốc hiếm cho người mắc bệnh hiếm tại Việt Nam

Việt Nam có khoảng 6 triệu người đang sống chung với bệnh hiếm, trong đó 58% là trẻ em. Đáng lo ngại, 30% trẻ mắc bệnh hiếm tử vong trước 5 tuổi. Tuy nhiên, việc tiếp cận thuốc điều trị vẫn gặp nhiều rào cản do giá thành cao và chưa được bảo hiểm y tế (BHYT) chi trả đầy đủ.

Ba “khó” của người mắc bệnh hiếm

Bệnh hiếm thường bao gồm các bệnh về rối loạn chuyển hóa, bệnh di truyền, rối loạn miễn dịch, thần kinh… Mặc dù số lượng bệnh hiếm được ghi nhận trên thế giới lên tới khoảng 6.000 căn bệnh, ảnh hưởng đến hơn 300 triệu người, nhưng việc chẩn đoán và điều trị vẫn còn nhiều hạn chế. Theo đó, người mắc bệnh hiếm phải đối mặt với ba thách thức lớn: khó chẩn đoán, khó điều trị và khó tiếp cận thuốc.

Do đặc điểm triệu chứng không điển hình, dễ bị nhầm lẫn với các bệnh thông thường, việc chẩn đoán bệnh hiếm thường kéo dài và phức tạp. Thêm vào đó, sự thiếu hụt về chuyên môn y tế và công nghệ xét nghiệm chuyên sâu càng khiến quá trình này trở nên khó khăn hơn.

Thống kê toàn cầu cho thấy, 80% trường hợp mắc bệnh hiếm có nguyên nhân di truyền, nhưng chỉ khoảng 200.000 người được chẩn đoán chính xác. Riêng tại Việt Nam, hiện có khoảng 100 loại bệnh hiếm với 6 triệu người mắc, trong đó 58% là trẻ em và 30% trẻ tử vong trước 5 tuổi.

BSCKII Nguyễn Thị Thanh Hương, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP HCM) tại sự kiện hưởng ứng ngày thế giới bệnh hiếm năm 2025.

Theo BSCKII Nguyễn Thị Thanh Hương, Phó giám đốc Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP HCM) hiện nay chỉ có khoảng 10% bệnh hiếm có thuốc điều trị. Điều này khiến quá trình điều trị trở nên khó khăn, không chỉ về mặt chuyên môn mà còn về tài chính.

Trong một chương trình tọa đàm khoa học do Bộ Y tế và Tổng hội Y học Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, bà Tống Thị Song Hương, nguyên Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Y tế (Bộ Y tế), Chánh Văn phòng Tổng hội Y học Việt Nam đã nhấn mạnh rằng: “Gánh nặng điều trị bệnh hiếm gấp 5-10 lần so với bệnh thông thường”. Một nghiên cứu tại Mỹ năm 2019 chỉ ra chi phí điều trị cho 15,5 triệu người mắc 379 loại bệnh hiếm lên tới 997 tỷ USD, bao gồm chi phí nằm viện (32%), thuốc điều trị (18%), còn lại là chi phí phi y tế (đi lại, ăn ở) và chi phí gián tiếp.

Ghi nhận tại Bệnh viện Nhi đồng 1, BS Thanh Hương cho biết từ năm 2017 đến nay, đơn vị đã quản lý hơn 500 bệnh nhi mắc bệnh hiếm. Mỗi năm, bệnh viện chi gần 40 tỷ đồng tiền thuốc điều trị cho trẻ mắc bệnh hiếm, có trường hợp cần tới 80 tỷ đồng cho một đợt điều trị.

Tuy nhiên, nếu bệnh nhi được điều trị sẽ thay đổi cả cuộc đời – không chỉ cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống, tình trạng sức khỏe mà còn giúp các em có cơ hội hòa nhập xã hội, học tập và phát triển như những đứa trẻ khỏe mạnh khác.

Làm gì để tăng cường tiếp cận thuốc hiếm tại Việt Nam?

Theo PGS.TS Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, do tính hiếm gặp và phức tạp, bệnh hiếm là thách thức lớn đối với y học trong công tác chẩn đoán và điều trị. Chỉ khoảng 5% bệnh hiếm có thuốc được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt. Chi phí điều trị cao khiến phần lớn bệnh nhân không đủ khả năng chi trả nếu không có sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước hoặc các tổ chức xã hội, đặc biệt với các liệu trình kéo dài.

Một số bệnh hiếm dù có thuốc điều trị tiên tiến trên thế giới giúp điều trị được nguyên nhân cốt lõi là do di truyền nhưng chưa được phê duyệt sử dụng tại Việt Nam, hoặc đã có thuốc nhưng người bệnh vẫn khó tiếp cận do giá quá cao, chưa được hỗ trợ chi trả bảo hiểm đầy đủ.

Đơn cử ở nước ta dù BHYT đã chi trả 100% cho trẻ dưới 6 tuổi mắc bệnh Pompe và 30% cho trẻ trên 6 tuổi, nhiều loại thuốc hiếm khác vẫn chưa được đưa vào danh mục thanh toán. Thực tế, không ít bệnh nhân phải bỏ cuộc vì không tiếp cận được thuốc hoặc phụ thuộc vào các chương trình nhân đạo quốc tế vốn thiếu tính bền vững.

Theo TS. Nguyễn Khánh Phương, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách y tế, Bộ Y tế, hiện 92 quốc gia có chính sách thuốc hiếm, một số nước đưa vào luật (luật về thuốc mồ côi, luật về bệnh hiếm), nhằm tăng cường tiếp cận thuốc. Điển hình như Hà Lan, Australia và Bỉ đã thành lập quỹ riêng cho bệnh hiếm, hỗ trợ chi trả thuốc và điều trị lâu dài; Mỹ có Đạo luật thuốc mồ côi (Orphan Drug Act) thúc đẩy nghiên cứu và tiếp cận thuốc hiếm…

Từ kinh nghiệm quốc tế, TS. Nguyễn Khánh Phương đề xuất Việt Nam cần xây dựng đồng bộ các chính sách quản lý bệnh hiếm nhằm tăng tiếp cận thuốc cho người bệnh như: xây dựng hướng dẫn điều trị các bệnh hiếm; thúc đẩy quá trình đăng ký, cấp phép thuốc hiếm, cũng như quy định về quản lý người bệnh, cơ chế tài chính, chi trả cho người bệnh mắc bệnh hiếm.

Nước mắt của một người mẹ tham dự sự kiện hưởng ứng ngày thế giới bệnh hiếm năm 2025.

Do thuốc hiếm có tính chất đặc biệt và cho nhóm người bệnh đặc biệt nên tiêu chí phê duyệt thuốc hiếm trong chương trình thanh toán của chính phủ hoặc BHYT cũng cần cơ chế đặc biệt hơn so với thuốc thông thường. Từ thực tiễn điều trị, BSCKII Nguyễn Thị Thanh Hương đề xuất một số thuốc hiếm nên được đưa vào danh mục bảo hiểm với tỉ lệ chi trả cao hơn, đồng thời mở rộng phạm vi chi trả cho điều trị dự phòng.

Ngoài chính sách nhà nước, sự tham gia của doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế đóng vai trò bổ trợ quan trọng. Điển hình, chương trình Tiếp cận thuốc nhân đạo quốc tế (ICAP) của Sanofi đã hỗ trợ miễn phí liệu pháp thay thế enzyme cho hàng trăm bệnh nhân từ năm 1997, với ngân sách hàng trăm tỷ đồng mỗi năm.

Theo đó, nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần kêu gọi sự tham gia của toàn xã hội, từ cơ quan quản lý, tổ chức, doanh nghiệp đến cá nhân để chung tay chia sẻ gánh nặng với người bệnh và gia đình họ. Đồng thời, xem xét thành lập một quỹ riêng dành cho bệnh hiếm, đảm bảo nguồn lực tài chính bền vững, giúp bệnh nhân tiếp cận thuốc và điều trị hiệu quả, không còn cảnh phải bỏ cuộc giữa chừng vì thiếu kinh phí.

Nhiều tín hiệu mang đến hy vọng cho người mắc bệnh hiếm ở nước ta

Hiện Ban Chỉ đạo tăng cường quản lý bệnh hiếm tại Việt Nam đã được Bộ Y tế thành lập do GS.TS Trần Văn Thuấn – Thứ trưởng Bộ Y tế làm Trưởng ban, có sự tham gia của các nhà quản lý, hoạch định chính sách thuộc Bộ Y tế; cơ quan Tổng hội Y học Việt Nam, các chuyên gia điều trị của nhiều chuyên ngành, chuyên khoa…

Tiếp đó, theo quy định tại Thông tư 01/TT-BYT có hiệu lực thi hành từ 1/1/2025, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, trong đó có quy định một số bệnh không cần giấy chuyển tuyến, có nghĩa là người bệnh đã được chẩn đoán mắc bệnh hiếm, bệnh hiểm nghèo, bệnh cần sử dụng kỹ thuật cao nằm trong danh mục của Bộ Y tế ban hành có thể đến thẳng cơ sở y tế chuyên sâu để điều trị mà không cần phải xin giấy chuyển viện như trước. Danh mục này gồm 62 bệnh hiếm, bệnh hiểm nghèo, bệnh cần sử dụng kỹ thuật cao. Danh mục này tăng 20 bệnh so với trước đây, trong đó có bổ sung một số nhóm bệnh hiếm.

Cùng đó, tại Khoản 3, Điều 3, Thông tư 37 của Bộ Y tế quy định nguyên tắc, tiêu chí xây dựng, cập nhật, ghi thông tin, cấu trúc danh mục và hướng dẫn thanh toán đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm, thuốc phóng xạ và chất đánh dấu thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia BHYT nêu rõ, thuốc hiếm thuộc Danh mục thuốc hiếm do Bộ Y tế ban hành hoặc Danh mục thuốc hiếm của Tổ chức Y tế thế giới hoặc cơ quan quản lý dược của các nước hoặc các hội y khoa, dược khoa, hội bệnh học có uy tín được xem xét đưa vào danh mục khi đáp ứng đủ các tiêu chí quy định tại Thông tư này và có bằng chứng tổng quan hệ thống về chi phí – hiệu quả.

Bà Vũ Nữ Anh, Phó Vụ trưởng Vụ BHYT, Bộ Y tế, cho hay các thuốc hiếm khi được đề xuất trong danh mục thuốc được BHYT chi trả sẽ có những ưu tiên nhất định. Với những thuốc mới, khi đưa vào danh mục sẽ cần đánh giá tác động ngân sách, chi phí hiệu quả. Nhưng với thuốc hiếm khả năng sẽ không cần đánh giá chi phí hiệu quả. Với những thuốc đề xuất tăng tỷ lệ thanh toán sẽ được xem xét hồ sơ, đánh giá tác động ngân sách xem có phù hợp hay không…

Nguồn: suckhoedoisong.vn

Chuyên mục
Tin Tức Y Dược

Bệnh nhân, bác sĩ hưởng lợi từ việc triển khai bệnh án điện tử

Việc đưa vào sử dụng bệnh án điện tử mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, cán bộ y tế. Đây là tiền đề để bệnh viện tiếp tục hiện đại hóa, minh bạch hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ.

Triển khai sớm, thực hiện nhanh

Bác sĩ Nguyễn Văn Thân, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa khu vực Quảng Ninh, tỉnh Quảng Trị chia sẻ, công tác chuyển đổi số y tế là vấn đề tất yếu. Từ đó, sẽ góp phần hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh, giảm thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian cho người bệnh và nhân viên y tế.

Bệnh viện Đa khoa khu vực Quảng Ninh đầu tư máy móc hiện đại để nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị bệnh.

Bệnh viện xác định ngoài thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh thường quy, công tác chuyển đổi số phải được đẩy mạnh, thực hiện nhanh. Để chủ động thực hiện, bệnh viện thành lập ban chỉ đạo, tổ giúp việc xây dựng đề án. Đồng thời, ban hành kế hoạch phân công nhiệm vụ cho các bộ phận triển khai theo đúng chuyên môn.

“Ban chỉ đạo chuyển đổi số của bệnh viện chủ động tìm hiểu luật, hướng dẫn của cơ quan chức năng, đơn vị cấp trên. Cử các tổ công tác học tập kinh nghiệm tại các đơn vị đã triển khai. Chúng tôi xác định không biết thì tìm tòi, học hỏi chứ không chờ để đề án chuyển đổi số sớm hiện thực hóa”, bác sĩ Thân chia sẻ.

Bệnh viện sớm triển khai giải pháp thanh toán viện phí không dùng tiền mặt.

Tiếp đó, bệnh viện đầu tư hoàn thiện hạ tầng công nghệ từ máy tính, nâng cấp đường truyền, thiết lập phần mềm, tập huấn cho toàn thể đội ngũ y bác sĩ… Cụ thể, bệnh viện đã sớm triển khai giải pháp thanh toán viện phí không dùng tiền mặt; sử dụng máy quét QR code, quét căn cước gắn chip để thay thế cho BHYT khi đi khám chữa bệnh; đăng ký chữ ký số cho toàn bộ y bác sĩ và triển khai sử dụng bệnh án điện tử

Sớm triển khai bệnh án điện tử, bác sĩ có chữ ký số, bệnh nhân được nhận kết quả ngay trên phần mềm điện thoại.

Từ đó, dần khép kín quy trình tiếp đón, khám, trả kết quả xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh cho bệnh nhân trên môi trường điện tử, thay thế cho hồ sơ, bệnh án giấy.

“Việc đưa vào sử dụng bệnh án điện tử không chỉ là bước tiến về công nghệ, mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, cán bộ y tế. Đây là tiền đề để bệnh viện tiếp tục hiện đại hóa, minh bạch hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ”, bác sĩ Thân cho biết thêm.

Hiệu quả thiết thực

Ông Phạm Phú Yên (trú xã Ninh Châu, tỉnh Quảng Trị) đến viện điều trị bệnh phổi mãn tính cách đây gần gần 1 tuần. Với những thay đổi trong việc tiếp nhận và điều trị ông Yên vui vẻ chia sẻ: “Trước đây đi khám rất nhiều giấy tờ thì nay đến chỉ cần đưa căn cước là có thể đăng ký khám. Khám xong bệnh tình ra sao, đơn thuốc thế nào cũng được chuyển qua điện thoại. Một số người ra viện trước, tôi thấy có thể chuyển khoản thanh toán nhanh chóng mà không cần dùng tiền mặt. Thay đổi như vậy là quá tiện lợi”.

Công tác chuyển đổi số, áp dụng bệnh án điện tử cũng mang lại lợi ích lớn cho đội ngũ y bác sĩ, nhân viên y tế. Sau hướng dẫn, tập huấn y bác sĩ, điều dưỡng của bệnh viện đã thành thạo triển khai hồ sơ bệnh án điện tử.

Bác sĩ Lê Văn Hương, Trưởng Khoa Cấp cứu – Hồi sức tích cực và Chống độc cho biết, công tác cấp cứu xem thời gian còn quý hơn vàng. Việc chuyển đổi số trong đơn vị giúp sức không nhỏ trong nhiều trường hợp cấp cứu, điều trị.

“Có những bệnh nhân vào cấp cứu trong đêm, trước đây phải yêu cầu giấy tờ, khai thác bệnh sử để có phương án phù hợp. Nay chỉ cần có mã số bảo hiểm hay số căn cước là nhanh chóng tra cứu được thông tin bệnh nhân, tiền sử bệnh ra sao. Từ đó việc cấp cứu được thực hiện nhanh hơn, hợp lý hơn”, bác sĩ Hương chia sẻ.

Trong công tác điều trị, trước đây khi muốn xem hồ sơ bệnh án, bác sĩ phải cất công tìm kiếm trong đống hồ sơ bằng giấy dày cộm. Khi áp dụng bệnh án điện tử, bác sĩ có thể tra cứu mọi thông tin cần thiết trên hệ thống. Việc ra các y lệnh, kê đơn thuốc cũng hạn chế sai sót.

“Giờ vào các khoa phòng không còn hình ảnh những chồng bệnh án dày cộm. Trước đây muốn trả kết quả, kê đơn là ngồi cặm cụi ký từng tờ bệnh án. Nay có thể xem kết quả chụp chiếu, xét nghiệm và kê đơn thuốc ngay trên máy tính, điện thoại không phải ngồi một chỗ mất thời gian”, bác sĩ Hương cho biết thêm.

Đội ngũ điều dưỡng của khoa nay cũng không còn cảnh chờ y lệnh, đơn thuốc ký tay. Giờ đây, điều dưỡng có thể chuẩn bị thuốc theo y lệnh của bác sĩ thông qua hệ thống bệnh án điện tử. Thông tin thông suốt, bớt khối lượng giấy tờ góp phần nâng cao hiệu quả làm việc.

Bác sĩ Đinh Viễn Anh, Phó Giám đốc Sở Y tế Quảng Trị cho rằng, việc áp dụng bệnh án điện tử tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Quảng Ninh đã mang lại nhiều lợi ích cho bệnh nhân và đội ngũ y tế. Với những kết quả đã đạt được, bệnh viện cần tìm hướng vượt khó để triển khai tốt bệnh án điện tử và tiếp tục đẩy mạnh công tác chuyển đổi số y tế.

“Đơn vị cần tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật và đảm bảo an toàn bảo mật thông tin người bệnh. Tăng cường đào tạo, tập huấn cho cán bộ y tế để vận hành thành thạo và khai thác tối đa lợi ích của hệ thống. Phối hợp với Sở Y tế và các cơ quan liên quan để kết nối, chia sẻ dữ liệu. Tuyên truyền cho người dân biết được lợi ích của công tác chuyển đổi số trong y tế…”, Phó Giám đốc Sở Y tế Quảng Trị nhấn mạnh.

Nguồn: suckhoedoisong.vn

Exit mobile version