Eczema là bệnh thường gặp và phổ biết nhất khi thời tiết chuyển mùa. Bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và thẩm mỹ của bệnh nhân.
Cùng chuyên gia Điều dưỡng tìm hiểu những yếu tố gây nên bệnh Eczema
Eczema là bệnh gì?
Eczema là bệnh thường gặp và phổ biết nhất khi thời tiết chuyển mùa. Bệnh tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng lại ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và thẩm mỹ của bệnh nhân. Đây là bệnh ngứa da điển hình nhất với các triệu chứng như nổi mẩn đỏ, có mụn nước và ngứa.
Yếu tố gây nên bệnh eczema là gì?
Hai yếu tố cơ bản làm phát sinh eczema là cơ địa dị ứng và tác nhân kích thích ở trong hay ngoài vào cơ địa ấy.
Do cơ địa dị ứng:Có tính chất gia đình, di truyền, tiền sử trong gia đình đã có người bị chàm, dị ứng, hen suyễn. Các tác nhân kích thích bên trong kèm theo có thể bị viêm mũi xoang, xơ gan, viêm đại tràng, viêm tai xương chũm, bệnh về thận…
Do các yếu tố dị nguyên:Việc dùng các thuốc như lưu huỳnh, thủy ngân, thuốc tê, sunfamid, chlorocid, penicillin, streptomycin… là lý do thúc đẩy bệnh eczema tiến triển. Mặt khác bệnh eczema cũng phát sinh khi tiếp xúc với các hóa chất như xi măng, thuốc nhuộm, nguyên liệu làm cao su, sơn xe, dầu mỡ, than đá, phân hóa học, thuốc trừ sâu, axit,… Các sản phẩm vi sinh có cơ chế dị ứng như vi khuẩn, nấm, siêu vi. Các yếu tố môi trường sống như khói, bụi, lạnh, nóng, ẩm, mặc trang phục được làm từ những chất liệu như len, vải được dệt không được mịn màng… Yếu tố tâm thần kinh cũng ảnh hưởng lên bệnh này, vì thế với một số người eczema cũng có thể nặng lên sau những chấn thương tâm lý, stress hay lo âu căng thẳng.
Bệnh phát triển qua 4 giai đoạn gồm đỏ da, mụn nước, lên da non, liken hóa (hăm cổ trâu). Bệnh có thể trở thành mạn tính, da dày lên, ngứa nhiều. Nhiều trường hợp bội nhiễm gây viêm da mủ, hoặc nhiễm khuẩn nặng.
Có thể chia làm hai loại eczema là eczema khô và eczema ướt (khi thương tổn là những mụn nước, hoặc đang rỉ dịch, rất ngứa và dễ bội nhiễm). Những người có biểu hiện eczema khô thường nứt nẻ, xuất hiện ở bàn tay, bàn chân, nặng lên khi trời lạnh, hoặc khi tiếp xúc hóa chất, xà phòng, chất tẩy rửa…
Tuyển sinh Văn bằng 2 Cao đẳng Điều dưỡng năm 2019
Hiện nay bệnh eczema được điều trị như thế nào ạ?
Theo các chuyên gia Trung cấp Y Hà Nội chia sẻ: Bệnh eczema không thể điều trị dứt hẳn được, đây còn là một vấn đề khá khó khăn. Việc điều trị nhằm kiểm soát các cơn ngứa, giảm các biểu hiện viêm da, ngăn ngừa, hay trị liệu tình trạng bội nhiễm nếu có, làm giảm thiểu sự xuất hiện của những thương tổn mới trên da. Phải tùy theo tuổi và tổn thương của bệnh mà có cách điều trị thích hợp. Giải pháp điều trị tốt nhất cho bệnh eczema là tích cực tìm ra nguyên nhân gây bệnh để tránh hoặc hạn chế tiếp xúc kết hợp với dùng thuốc uống với thuốc bôi ngoài da theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Các thuốc uống gồm:
Thuốc chống ngứa nên dùng một trong các thuốc chống dị ứng như sirô phenergan, sirô théralèn, chlorpheniramin…
Thuốc chống bội nhiễm (kháng sinh): Tùy theo tình trạng bội nhiễm, bác sĩ sẽ chọn lựa kháng sinh phù hợp. Trong trường hợp eczema có viêm da mủ, cần điều trị chống bội nhiễm bằng cách cho uống thuốc kháng sinh (amoxicilin, cephalosporin…).
Các thuốc bôi ngoài da gồm:
Hồ nước dùng trong giai đoạn đầu, da mới đỏ, chảy nước ít, có tác dụng làm dịu da, giúp đỡ ngứa.
Dung dịch, thường dùng jarish, natri clorid 0,9%, thuốc tím 0,001%, vioform 1%. Dùng trong giai đoạn bệnh eczema bán cấp. Dùng gạc nhúng vào dung dịch, đắp nhiều lần lên nơi tổn thương. Không dùng các dung dịch có axit boric cho trẻ em.
Thuốc mỡ chủ yếu dùng trong eczema mạn tính. Việc dùng thuốc mỡ trong giai đoạn cấp tính sẽ gây phản ứng mạnh. Các kháng sinh dạng thuốc mỡ như cream synalar-neomycin, cream celestoderm-neomycin dùng bôi khi có nhiễm khuẩn. Các thuốc mỡ chứa corticosteroid có thể sử dụng để bôi trên tổn thương eczema khô, không nên dùng trong các trường hợp eczema nhiễm khuẩn. Không nên bôi quá rộng vì có thể gây biến chứng do tác dụng phụ của thuốc.
Lưu ý: Để điều trị bệnh eczema hiệu quả, người bệnh cần đồng thời áp dụng các biện pháp phòng bệnh như uống nhiều nước mỗi ngày, có thể thay nước lọc bằng các loại trà thanh nhiệt (actiso, hoa hòe, hoa cúc,…), nước ép trái cây tươi chứa nhiều vitamin để giải độc cơ thể, bài trừ độc tố, nâng cao sức đề kháng, ăn thức ăn lỏng nhẹ. Tránh dùng rượu, bia, thuốc lá, cà phê, hải sản, đồ hộp, thức ăn sống, lên men, các thức ăn có nhiều gia vị cay nóng. Giữ vệ sinh da sạch sẽ, đặc biệt là vùng da bị eczema. Tránh cọ xát, gãi, xát xà phòng vì sẽ làm bội nhiễm tạo nên những tổn thương khó lành. Có thể dùng chè tươi, lá bàng tươi nấu lấy nước tắm. Bệnh nhân eczema nên tránh tiếp xúc với các nguyên nhân gây dị ứng làm bệnh nặng thêm.
Là một loại bệnh phổ biến và thường gặp ở mọi lứa tuổi, có hai loại đó là viêm amidan cấp tính và mãn tính, tuy nhiên trong một số trường hợp nặng nếu không điều trị kịp thời sẽ gây ra những nguy hiểm khó lường.
Biến chứng của viêm amidan nguy hiểm như thế nào tới sức khỏe?
Những biểu hiện của viêm amidan là gì?
Viêm amidan cấp tính:là hiện tượng viêm sung huyết hoặc viêm mủ thường do virut và vi khuẩn gây nên. Bệnh rất hay gặp ở trẻ nhỏ, thiếu niên do sức đề kháng cơ thể còn kém, biểu hiện là sốt cao, có cảm giác rét, hơi thở có mùi hôi, cơ thể đau nhức, cổ họng khô rát, khi ngủ hay khò khè và ho.Nếu để người bệnh sốt quá cao sẽ dẫn tói mê sản, co giật rất nguy hiểm.
Viêm amidan mãn tính:sảy ra do amidan bị viêm đi viêm lại nhiều lần, gây nên tình trạng quá phát hoặc xơ teo. Do các hốc amidan chứa nhiều mủ nên người bệnh có hơi thở hôi, đau họng, ho khan, khàn tiếng, một số trường hợp khi ngủ ngáy to và có thể ngừng thở.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng viêm amidan ?
Do virut xâm nhập vào cơ thể: toàn bộ phần niêm mạc họng sẽ đỏ, sưng tấy nhưng không có chấm mủ. Virut chủ yếu gây nên viêm amidan cấp tính nên thường được điều trị bằng kháng sinh, kết hợp nghỉ ngơi thì bệnh nhân sẽ nhanh chóng phục hồi.
Do vi khuẩn từ bên ngoài và bên trong cơ thể gây nên: hai amidan sưng to, có mủ. Trường hợp này cũng chỉ cần nghỉ ngơi, uống thuốc là có thể khỏi viêm.
Viêm amidan do liên cầu bêta tan huyết nhóm A: ddooid tượng thường gặp phải là trẻ nhỏ, nếu được chữa đúng thuốc thì sẽ nhanh khỏi, tuy nhiên có thể gây ra các biến chứng như: viêm cầu thận, viêm khớp, dẫn tới thấp tim vô cùng nguy hiểm.
Các biến chứng nguy hiểm thường gặp khi bị viêm amidan
Theo trang tin tức tại Bệnh đường hô hấp được biết: Mỗi năm có hàng nghìn ca mắc viêm amidan, chủ yếu là trẻ nhỏ và vị thành niên. Đây được xem là hiện tượng bình thường, không có gì đáng lo ngại, tuy nhiên nếu không có phương pháp điều trị kịp thời thì sẽ để lại những nguy hiểm rất lớn.
Biến chứng tại chỗ: Sưng viêm quanh amidan, đau rát cổ họng gây khó khăn khi ăn uống, có thể nhức mỏi, nóng sốt toàn thân, một số trương hợp mê sản và co giật.
Biến chứng kế cận: là do tác động của viêm amidan lây sang các cơ quan lân cận như: viêm tai, viêm mũi, viêm phế quản…
Biến chứng toàn thân: xảy ra tình trạng nhiễm khuẩn máu, viêm cầu thận, thấp khớp, thấp tim…thậm chí ngưng thở và tử vong.
Đào tạo Cao đẳng Điều dưỡng chính quy với nhiều ưu đãi
Có thể phòng và điều trị viêm amidan như thế nào?
Để tránh các biến chứng của viêm amidan có thể gây nguy hiểm đến con người thì việc phòng và điều trị kịp thời là hoàn toàn cần thiết.
Luôn đảm bảo cơ thể được nạp đủ nước và chất dinh dưỡng cần thiết.
Tránh để cơ thể bị lạnh, cảm cúm, nhiễm virut.
Thường xuyên luyện tập thể dục thể thao để nâng cao sức khỏe và đề kháng cơ thể.
Vệ sinh răng miệng sạch sẽ, súc miệng bằng nước muối sinh lý đều đặn mỗi ngày.
Khi thấy đau họng nên ngậm chanh muối, chanh mật ong để giảm sự đau rát.
Nên điều trị các bệnh hô hấp, phế quản, xoang, vì những bệnh này tác động gây nên viêm amidan rất cao.
Nếu viêm amidan mãn tính nên đi cắt để điều trị hoàn toàn.
Viêm amidan có thể gây nên những nguy hiểm cho cơ thể người bệnh vì vậy cần có biện pháp kịp thời.
Viêm phế quản ở trẻ em là bệnh thường gặp ở mùa lạnh. Nếu không được chữa trị kịp thời, viêm phế quản có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm cho trẻ.
Viêm phế quản là bệnh lý xảy ra khi đường thở hoặc cuống phổi bị viêm nhiễm nhưng chưa ảnh hưởng đến nhu mô phổi. Ảnh hưởng của bệnh khiến trẻ ho nhiều,sốt, đau họng, quấy khóc. Nếu không điều trị kịp thời, viêm phế quản có thể lan xuống phổi gây viêm phổi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bé.
Tùy vào từng mức độ viêm phế quản, có thể chia bệnh thành 2 loại: Viêm tiểu phế quản và viêm phế quản cấp. Đây là bệnh thường gặp ở trẻ em. Tuy nhiên khi thời tiết trở lạnh là lúc trẻ mắc bệnh nhiều hơn cả.
Nguyên nhân gây bệnh viêm phế quản
Nguyên nhân của bệnh viêm phế quản của trẻ thường bắt nguồn do nhiễm trùng đường hô hấp hoặc thay đổi thời tiết. Virus là thủ phạm chính gây nên các triệu chứng của bệnh như ho, cảm, sốt, đau họng..
Ngoài ra còn một số nguyên nhân do tác động bên ngoài khác như khói thuốc lá, lông chó mèo, phấn hoa, hóa chất…có thể gây ra bệnh viêm phế quản ở trẻ. Đa số trẻ em phải sống trong môi trường có nhiều khói thuốc lá đều có nguy cơ bị viêm phế quản.
Viêm phế quản gây ho, sốt cho trẻ
Triệu chứng của viêm phế quản
Theo các Dược sĩ Cao đẳng Dược TPHCM
Các triệu chứng của viêm phế quản ở trẻ em ban đầu thường xuất phát từ các bệnh nhỏ như cảm, viêm xoang, ho, cúm… Nếu cha mẹ không điều trị kịp thời, các tác nhân gây bệnh di chuyển tới cuống phổi làm khí quản sưng phồng, ứ đọng dịch nhầy trong phổi gây ra hiện tượng khò khè, sốt kéo dài.
Các biểu hiện của bệnh giai đoạn sau là đau rát cổ họng, khi ho có đờm màu xanh, vàng hoặc xám, đau ngực… khiến trẻ mệt mỏi.
Bổ sung chế độ dinh dưỡng để nâng cao thể trạng cho trẻ.
Giữ gìn vệ sinh cơ thể cho trẻ hàng ngày, đặc biệt là khu tai, mũi, họng.
Thực hiện tiêm chủng mở rộng phòng bệnh theo đúng quy định để ngăn ngừa dịch bệnh cho bé.
Bảo vệ trẻ khỏi các môi trường có khói thuốc, hóa chất hoặc không cho trẻ chơi với chó mèo nếu có tiền sử dị ứng với chó mèo.
Bố trí phòng ngủ cho trẻ thông thống, đầy đủ ánh sáng và vệ sinh gọn gàng.
Luôn giữ ấm cơ thể để phòng ngừa viêm phế quản cho trẻ
Cách chữa trị viêm phế quản cho trẻ
Khi trẻ bị viêm phế quản, cha mẹ hãy nhanh chóng đưa trẻ đến trung tâm y tế để được bác sĩ chẩn đoán và điều trị bệnh kịp thời. Liệu pháp chính được áp dụng trong việc điều trị viêm phế quản là dùng thuốc ho để khai thông đờm trong cổ họng ra ngoài theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Viêm phế quản là bệnh do virus gây nên, do đó việc điều trị bằng thuốc kháng sinh sẽ không mang lại lợi ích hiệu quả. Cách điều trị bệnh viêm phế quản cho trẻ tốt nhất là bổ sung chất dinh dưỡng để tăng cường sức đề kháng, cho trẻ uống 8 – 10 cốc nước mỗi ngày, giữ ấm cơ thể cho trẻ và dọn dẹp không gian của trẻ thật sạch sẽ.
Trên đây là những kiến thức về bệnh viêm phế quản ở trẻ em mà cha mẹ không thể bỏ qua. Nắm vững kiến thức về bệnh là cách để bệnh viêm phế quản không còn là bệnh nguy hiểm, giúp phụ huynh bảo vệ trẻ trước căn bệnh phổ biến này.
Sởi là một bệnh truyền nhiễm với các triệu chứng như sốt, ho, phát ban, mắt đỏ… cực khó chịu. Bệnh nếu không được phòng và điều trị kịp thời, có thể dẫn đến biến chứng gây tử vong nguy hiểm cho người bệnh. Vậy làm thế nào để phòng và điều trị bệnh hiệu quả? Hãy cùng chúng tôi theo dõi những thông tin hữu ích dưới đây nhé.
Triệu chứng bệnh sởi ở trẻ nhỏ
Bệnh sởi là gì?
Bệnh sởi là một bệnh lý truyền nhiễm cấp tính và có thể lây chéo từ người này sang người khác. Bệnh do siêu virus gây nên với biểu hiện cụ thể và đặc trưng ở giai đoạn cuối là phát ban toàn cơ thể. Bệnh sởi gây nhiều biến chứng cực kỳ nguy hiểm cho người bệnh như: viêm tai giữa, viêm phổi, khô loét giác mạc mắt và đôi khi viêm não…
Khi virus sởi xâm nhập vào cơ thể bệnh nhân, chúng thường gây bệnh trong những tế bào sau cổ họng và phổi. Và bệnh từ đó sẽ lan khắp cơ thể, kể cả hệ hô hấp rồi nhanh chóng lây truyền sang những bệnh nhân khác. Chính vì vậy bệnh sởi rất dễ hình thành dịch trong thời gian ngắn.
Nguyên nhân gây bệnh sởi
Thông thường mỗi người chỉ 1 lần bị bệnh sởi, chính vì vậy trẻ em trong khoảng từ 1- 5 tuổi là đối tượng dễ bị bệnh sởi nhất, do hệ miễn dịch của các bé chưa hoàn thiện.
Bệnh sởi hình thành do virus siêu vi rút sởi nằm ở mũi và họng của người bệnh, chính vì vậy nó rất dễ lây lan từ người này qua người khác qua việc nói chuyện, hắt hơi, ho…virus gây bệnh sẽ theo ra ngoài không khí bằng những giọt nước nhỏ xíu, người khác vô tình hít vào cũng là một trong những nguyên nhân bị lây nhiễm.
Tiếp xúc với người bệnh cũng là một những nguyên nhân gây bệnh sởi phổ biến nhất hiện nay.
Tiêm phòng bệnh sởi
Triệu chứng thường gặp của bệnh sởi
Những người bị bệnh sởi thường có triệu chứng sốt nhẹ cho đến sốt nặng. Trong nhiều trường hợp do sốt cao, người bệnh còn có thể bị nổi hạch khắp cơ thể.
Người bệnh thường xuyên bị ho khan, ho gió và ho có đờm, đau cổ họng và đau đầu.
Hay bị chảy nước mũi, đau mắt đỏ, không chịu được ánh sáng và sức móng cũng là những triệu chứng nhận biết bệnh sởi.
Trên cơ thể người bệnh bắt đầu nổi lên những nốt nhỏ, có màu hồng nhạt, đây là dấu hiệu nhận biết đặc trưng của bệnh sởi. Dần dần, những mảng đỏ sẽ nổi lên trên khắp cơ thể khiến người bệnh cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu và nóng nhức khắp toàn thân ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe người bệnh.
Cách điều trị bệnh sởi hiệu quả
Các Dược sĩ chia sẻ
Điều trị theo Tây y
Hiện nay phương pháp điều trị bệnh sởi chủ yếu là điều trị triệu chứng kết hợp cùng với việc săn sóc và nuôi dưỡng. Khi bị bệnh sởi, người bệnh sẽ được hạ sốt bằng nhiều cách khác nhau, như sử dụng phương pháp vật lý trị liệu, cũng có thể dùng thuốc hạ sốt thông thường như Paracetamol. Ngoài ra người bệnh sẽ uống orezon và bổ xung nước hoa quả hay vitamin C để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể.
Điều trị theo Đông Y
Ngoài việc điều trị bệnh sởi bằng thuốc Tây, người bệnh có thể kết hợp sử dụng với các bài thuốc Đông y để đạt được hiệu quả điều trị bệnh cao nhất. Chỉ với các loại thảo dược tự nhiên như rau ngổ, rau diếp cá, lá canh trâu… nhưng khi kết hợp với nhau, dùng để đun nước tắm cho người bệnh lại làm một trong những cách điều trị bệnh hiệu quả, lại cực an toàn cho sức khỏe mà người bệnh không nên bỏ qua.
Trên đây là những kiến thức căn bản và đầy đủ nhất về nguyên nhân, triệu chứng và những cách điều trị bệnh sởi hiệu quả. Ngoài ra để phòng bệnh một cách hiệu quả, bạn nên xây dựng một chế độ ăn uống đầy đủ và khoa học, kết hợp với việc tập luyện thể thao đầy đủ nhằm nâng cao sức đề kháng, giúp cơ thể chống chọi với bệnh sởi một cách hiệu quả nhất.
Sừng dê hay còn được gọi với tên khác là dương giác ảo hay cây sừng bò. Đây là một vị thuốc Y học cổ truyền với nhiều công dụng tốt cho sức khỏe con người, đặc biệt là công dụng chữa bệnh tim. Sau đây các bạn đọc hãy cùng với các lương y tại trường Cao đẳng Y dược TP HCM tìm hiểu rõ hơn về công dụng của loại thảo dược đặc biệt này nhé!
Cây sừng dê mọc hoang phân bố khắp nước ta
Thông tin cần biết về cây sừng dê
Cây sừng dê là loại cây thuộc họ Trúc đào Apocynaceae, có tên khoa học là strophanthusdivaricatus. Sừng dê là dạng cây bụi, mọc phổ biến ở nước ta có cành vơn dài 3m – 4 m. Vỏ có nhiều nốt sần. Lá mọc đối, có cuống ngắn. Cụm hoa hình xim ở đầu cành. Hoa màu vàng, cánh hoa kéo dài thành hình sợi. Quả nang gồm 2 đại nhọn đầu, dính nhau ở gốc. Hạt nhiều, màu nâu, có cán mang chùm lông mịn. Toàn cây có nhựa mủ. Theo tìm hiểu của dược sĩ Lê Thị Thanh Nhàn giảng viên Cao đẳng Dược tại Trường Cao đẳng Y dược TP HCM cho biết trong hạt cây sừng dê có chứa các glucosid : divaricosid , thủy phân cho genin là sarmentogenin và phần đờng là L-oleandrosa; divostrosid, caudosid, sinosid …
Theo y học cổ truyền, cây sừng dê có vị đắng, tính hàn và rất độc. Hạt và cành cây sừng dê có công dụng cường tâm, chỉ dương, tiêu thũng, sát trùng khư phong thấp , thông kinh lạc. Lá sừng dê có tác dụng tiêu thũng, chỉ dương, sát trùng.
Áp dụng cây sừng dê vào đơn thuốc chữa bệnh
Sừng dê với nhiều công dụng tốt cho sức khỏe chúng ta
Trị hắc lào Dân gian thường dùng chất nhựa để bôi các vết mụn hắc lào ngoan cố. Nhưng nhựa này có độc, nhỡ ăn phải bị chết người, vào mắt có thể bị mù; khi dùng phải cẩn thận.
Trị bệnh tim Hạt cây sừng dê có thể dùng để chế thuốc chữa bệnh tim thay những loại thuốc tương tự chế bằng các hạtD. Strophantin là hỗn hợp dùng glucosid dùng chữa suy tim cấp và mạn tính, trường hợp suy tim không chịu tác dụng của thuốc loại Digitalis. Ngày 1 – 2 ống tiêm, mỗi ống 2 ml có 0,25 mg D. Strophantin. Tiêm dung dịch nguyên hoặc pha loãng trong dung dịch tiêm glucosa, tiêm thật chậm vào tĩnh mạch.
Viêm tắc động mạch là một bệnh của hệ thống động mạch trong đó các biểu hiện bệnh lý nổi bật là tình trạng co thắt của động mạch, gây rối loạn dinh dưỡng và đưa đến hoại tử vùng tổ chức do các động mạch đó chi phối.
Viêm tắc động mạch gây rối loạn dinh dưỡng.
Về mặt danh pháp tuy còn nhiều vấn đề chưa được hoàn toàn thống nhất, nhưng danh từ “ Viêm tắc động mạch” đã được Winiwater đưa ra từ cuối thể kỷ 19 và đã được nhiều tác giả công nhận.
Bệnh thường gặp ở Nam giới. Thường phát triển ở chi dưới nhưng đôi khi cũng thấy ở các động mạch chi trên, ruột, động mạch vành, động mạch não…
I. Cơ chế bệnh sinh:
Cho đến nay đã có rất nhiều giả thuyết đưa ra để giải thích cơ chế bệnh sinh của bệnh Viêm tắc động mạch. Cơ chế được đa số tác giả công nhận là:
+ Các yếu tố kích thích của ngoại cảnh riêng lẻ hay tổng hợp như: khí hậu lạnh và ẩm kéo dài, nghiện thuốc lá, ăn uống thiếu các Vitamin, các căng thẳng kéo dài về tâm và sinh lý… tác động lên hệ thống thần kinh trung ương cũng như hệ thần kinh giao cảm, từ đó gây các phản ứng co thắt ở động mạch.
+ Tình trạng co thắt kéo dài của động mạch sẽ gây thiếu máu cục bộ và đau đớn kéo dài ở vùng tổ chức phía ngoại vi. Chính những yếu tố này đến lượt chúng lại trở thành các kích thích nội sinh tác động trở lại hệ thống thần kinh trung ương và hệ thần kinh giao cảm, từ đó lại làm động mạch bị co thắt nặng thêm.
+ Kết quả của vòng phản xạ bệnh lý nói trên sẽ làm cho tình trạng co thắt động mạch trở nên liên tục và dẫn đến các biến đổi ngày càng nặng của hệ thống động mạch: lớp cơ của thành động mạch tăng sinh, lớp nội mạc động mạch dày lên, xuất hiện những hiện tượng thoái hoá trong hệ thần kinh giao cảm của thành động mạch, lòng động mạch bị hẹp lại và dần dần tạo nên các cục nghẽn…
+ Quá trình trên tăng lên dần dần dẫn tới tắc hoàn toàn động mạch. Vùng tổ chức phía ngoại vi bị thiếu máu nuôi dưỡng nặng dần dẫn tới hoại tử tổ chức, gây đau đớn kéo dài và nhiễm trùng nhiễm độc cho bệnh nhân.
II. Triệu chứng lâm sàng:
1. Triệu chứng
Bệnh viêm tắc động mạch mạn tính diễn tiến từ từ theo nhiều gia đoạn khác nhau. Có nhiều các phân loại các giai đoạn bệnh. Nhưng tốt nhất vẫn là bảng phân loại của Lerich và Fontaine, với các ưu điểm đơn giảm, dễ áp dụng:
Giai đoạn I: Không có triệu chứng, không có tôn thương tắc nghẽn đáng kể về mặt huyết động học.
Giai đoạn II: Đau cách hồi nhẹ và không ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày. Hoặc đau cách hồi nặng ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày.
Giai đoạn III: Đau ngay cả khi nằm nghỉ ngơi.
Giai đoạn IV: Hoại tử từng phần chi, loét chi do thiếu máu cục bộ tại chỗ và thiếu máu cục bộ lan tỏa ở xa. Hoại tử lan rộng quá bàn chân.
Khi bệnh đã ở giai đoạn trễ, tức giai đoạn III và IV, các tổn thương đã quá rõ ràng, việc chẩn đoán trở nên dễ dàng. Ngược bệnh ở giai đoạn II, cần phải khám kỹ mới chẩn đoán được. Bệnh nhân cớ các dấu hiệu cường giao cảm: vã mồ hôi, lạnh chi, một số bạnh nhân có dấu hiệu tím tái của chi.
Phải tiến hành bắt mạch tại các vị trí đặc biệt như: mạch quay, mạch khoeo, mạch mu chân… chúng ta sẽ tìm thấy dấu hiệu mất mạch tại các vị trí trên, đó là dấu hiệu quan trọng nhất để xác định chẩn đoán. Cần bắt mạch có hệ thống và so sánh cả hai bên. Sau đó có thể sử dụng ống nghe dọc theo đường đi của động mạch để tìm xem có tiếng thay đổi hay không?
1.1 Dấu hiệu rối loạn chức năng.
Biểu hiện bằng sự co thắt mạch máu các chi khi gặp lạng, đi nhanh và khi làm việc nặng. Lúc bệnh mới phát triển, bệnh nhân thấy cóng buốt ở các chi và đau ở bắp thịt cẳng chân khi đi lại làm bệnh nhân phải dừng lại và phút đến khi hết đau mới đi được và sau vài trăm bước đau lại xuất hiện vì động mạch lại co thắt. Triệu chứng nàu gọi là dấu hiệu “đi lặc cách hồi” và là triệu chứng đặc biệt của giai đoạn dầu phát triển của bệnh. Đau có thể lan xuống bàn ngón chân, đôi khi khu trú chủ yếu ở các ngón chân. Lúc nghỉ ngơi và ban đêm không thấy xuất hiện
Đau bắp chân còn xuất hiện khi bị lạnh ẩm, khi chân bị lạnh thấy xuất hiện co rút cá cơ bàn chân và cẳng chân, da ở chân trở nên nhợt nhạt và lạnh. Hiện tượng này có thể tháy cả khi nhiệt độ phòng bình thường. Khi sưởi ấm da ở chân trở nên tím hay đỏ vì xung huyết.
Mạch mu chân thường yếu có khi không sờ thấy, khi ấn tay vào ngón chân thấy trắng bệch ra một lúc lâu, gọi là dấu hiệu “nốt trắng”.
Bệnh nhân thường kèm theo chứng tê chân, tê thường xuất hiện ở một tư thế nhất định tùy từng bệnh nhân (hay gặp nhất là khi nằm), thêm vào đó bệnh nhân có cảm giác lạnh bàn chân do thiếu máu ở các đầu dây thần kinh ngoại vi.
Trong những trường hợp không điểm hình có thể chản đoán nhầm với: Đau và đem như bệnh Goutte, hoặc chỉ có cảm giác đau nhẹ, âm ỉ ở sâu như giãn tĩnh mạch sâu,. Ngược lại cũng có khi đau dữ dội từ bắp chân lan xuống bàn chân liên tục, nghỉ cũng không hết đau như đau thần kinh hông to.
Tóm lại: dấu hiệu này có ba triệu chngs điểm hình là: đi lặc cách hồi, tê chân, lạnh chân.
1.2 Dấu hiệu rối loạn dinh dưỡng và đau liên tục
Đánh giá các mức độ rối loạn dinh dưỡng:
Rối loạn dinh dưỡng là dấu hiệu rất đặc trưng và là hậu quả của việc thiếu máu nuôi dưỡng chi do tắc động mạch. Những trường hợp rối loạn dinh dưỡng được chia làm hai mức độ:
– Rối loạn dinh dưỡng nhẹ. Bao gồm: Khô da, tróc vảy, rụng lông, gãy móng, thay đổi màu sắc da khi thay đổi tư thế của chi như tái nhạt khi giơ cao, đỏ bầm khi hạ chi xuống.
– Rối loạn dinh dưỡng nặng: Cơ teo, chậm hay không lành cá vết thương ở chi, loét đầu chi, hoại tử đầu chi khu trú hay lan rộng. Dấu hiệu này xuất hiện khi mà hiện tượng thiếu máu dầu chi trở nên thường xuyên hơn, ngay cả lúc nghỉ ngơi, đặc điểm của đau là:
Đau kéo dài, dai dẳng, cá phương pháp điểu trị thông thường không đỡ đau.
Đau tăng nhiêu về đem lầm bệnh nhân mất ngủ, suy nhược.
Đau tăng khi đưa chân lân cao, giẩm dần khi thõng chân xuống thấp.
Rối loạn dĩnh dưỡng biểu hiện bằng các hiện tương: Da khô, móng chân dày lên, và mọc lệch sang bên cạnh, dưới móng chan có viên sưng mủ. Đàu ngón chân có thể xuất hiện các vết loát nhỏ ướt và đau.
1.3 Hoại tử hay hoại thư.
Hoại tử do viêm tắc động mạch
Hoại tử hay hoại thư khi các triệu chứng đau và rối loạn dinh dưỡng tăng lên. Đau các ngón chân trở nên thường xuyên và không thể chịu nổi, làm bệnh nhân không thể đi lạ nếu không có thuốc an thần và chống đau, tuy nhiên tác dụng của thuốc cũng chỉ tạm thời. Bệnh nhân luôn phải ngồi, hai tay giữ lấy bàn chân bị bệnh.
Các vết loét xuất hiện và phủ một lớp bẩn, đáy có tổ chức hoại tử. Hiện tượng phù và tím da lan lên bàn chân. Trên phim X quang thấy xốp ở bàn chân. Không sờ thấy mạch và không ghi được giao động đồ mạch máu ở bàn chân, cẳng chân và đùi.
Toàn tràng suy sụp, người xanh, gầy, có thể có sốt nhẹ 37o5 – 38o . Một số trường hợp sức đề kháng kém có thể bị nhiễm trùng, hoại tử khô biến thành hoại tử ướt.
Buerger nói nên ba dấu hiệu sắp có hoại tử là:
+ Thiếu máu khi nâng chi cao: khi nâng chi lên, màu da trở nên tái nhợt vì các thành phần mao mạch và tĩnh mạch kém dinh dưỡng không còn trương lực, và dưới tác dụng của trọng lực máu dồn đi hết
+ Góc thiểu năng tuần hoàn: khi hạ chân xuống một góc độ nhất định nào đó, màu đen từ tái nhợt trở lại màu tím.
+ Dấu hiệu ép ngón cái: ấn vào ngón cái dồn máu đi, sâu đó thả tay ra, màu sắc của ngón cái trở lại rất chậm, ngay cả khi để chân thấp.
2. Dấu hiệu
+ Thay đổi màu sắc da của chi bị tổn thương:
Theo tư thế: để bình thường thấy da có màu tái nhợt hoặc xen kẽ các chỗ tái nhợt với các chỗ da bình thường. Khi cho bệnh nhân để thõng chân xuống (để máu đến chi nhiều hơn) thì thấy da đỡ tái nhợt và hồng lên.
Nghiệm pháp gẫp duỗi cổ chân: cho bệnh nhân nằm sấp, gấp duỗi khớp cổ chân vài lần thì sẽ thấy chỉ trong vài giây bàn chân của bệnh nhân sẽ trở nên tái nhợt. Khi cho bệnh nhân đứng dậy nếu trong 10 giây màu da bàn chân không trở lại bình thường thì chứng tỏ có rối loạn rõ rệt của tuần hoàn chi dưới.
Nghiệm pháp Oppel và Buerger: cho bệnh nhân nằm ngửa, duỗi thẳng chân và giơ chân lên cao, chỉ sau vài giây da của chân đã chuyển thành tái nhợt.
Nghiệm pháp Collins và Velenski: cho bệnh nhân nằm ngửa duỗi thẳng chân và giơ chân lên cao, đồng thời với hiện tượng thay đổi mầu sắc da còn thấy các tĩnh mạch mu bàn chân bị xẹp đi. Cho bệnh nhân ngồi dậy và buông thõng chân xuống, theo dõi thời gian các tĩnh mạch mu bàn chân đầy trở lại: bình thường các tĩnh mạch này đầy trở lại trong vòng 7 giây, nếu thời gian đầy lại kéo dài hơn thì chứng tỏ động mạch có thể bị tắc.
Dấu hiệu ép ngón chân cái: ấn vào ngón chân cái của bệnh nhân rồi bỏ tay ra để quan sát. Khi màu da ngón cái hồng trở lại chậm thì chứng tỏ có rối loạn tuần hoàn ở chi dưới.
+ Mạch chày sau và mạch mu chân yếu hoặc mất:
Phải bắt mạch cẩn thận và so sánh mạch ở cả hai chân.
+ Các triệu chứng rối loạn dinh dưỡng ở chi bị bệnh:
Có thể khám thấy các triệu chứng
Rối loạn tiết mồ hôi.
Da chi thường khô, teo . Lông thưa, rụng.
Các cơ bị teo, nhẽo.
Xương chi bị xốp do tình trạng loãng xương.
Loét và hoại tử đầu chi: xảy ra ở giai đoạn cuối của bệnh, cảm giác đau ở chi tăng lên và trở nên thường xuyên, xuất hiện các vết loét đầu tiên thường ở đầu ngón chân và mu bàn chân, toàn trạng bệnh nhân suy sụp do nhiễm trùng nhiễm độc nặng.
III. Triệu chứng cận lâm sàng:
1. Đo dao động động mạch:
Xác định được mức độ giảm biên độ giao động của động mạch bị viêm tắc ở chi tổn thương.
2. Soi mao mạch:
Xác định thấy giảm số lượng và đường kính các mao mạch ở chi tổn thương, tốc độ di chuyển của hồng cầu trong mao mạch cũng bị giảm xuống.
3. Đo nhiệt độ da:
Xác định thấy nhiệt độ da của chi bị tổn thương bị giảm đi rõ rệt so với bên lành.
Có thể tiến hành đo nhiệt độ da trước và sau khi phong bế hạch thần kinh giao cảm thắt lưng, nếu sau khi phong bế hạch mà thấy nhiệt độ da ở chi tổn thương tăng lên thì việc chỉ định mổ cắt hạch giao cảm thắt lưng sẽ có hiệu quả tốt.
4. Siêu âm động mạch và nghiên cứu Doppler động mạch:
+ Chụp Siêu âm động mạch: xác định được tình trạng thành động mạch dày lên, nội mạc động mạch dày, có các cục nghẽn mạch…
+ Nghiên cứu Doppler: xác định được các biến đổi của dòng máu lưu thông trong động mạch bị viêm tắc: giảm tốc độ dòng máu, giảm lưu lượng máu, xuất hiện các dòng chảy rối do có các cục nghẽn…
5. Chụp động mạch cản quang:
+ Xác định được hình dạng và mức độ co thắt của các động mạch bị viêm tắc, hình các cục nghẽn trong động mạch, mức độ lưu thông của dòng máu trong động mạch…
+ Xác định được tình trạng hệ tuần hoàn bên của chi có động mạch chính bị viêm tắc.
6. Chụp CT, chụp MRI động mạch:
Ngoài việc xác định được các biến đổi về hình thái của động mạch bị viêm tắc, chụp CT và MRI còn xác định được cả tương quan giải phẫu cũng như các thay đổi về hình thái của các tổ chức và cơ quan xung quanh.
IV. Chẩn đoán phân biệt:
Một số bệnh cần chẩn đoán phân biệt với bệnh Viêm tắc động mạch:
1. Hoại tử đầu chi trong bệnh đái tháo đường:
+ Tiền sử thường không có dấu hiệu “đi lặc cách hồi”
+ Vị trí bị hoại tử thường ở gan bàn chân, gót chân…
+ Xét nghiệm thấy Glucoza máu tăng, có Glucoza trong nước tiểu…
2. Bệnh xơ vữa động mạch:
+ Thường bị tổn thương hệ thống động mạch toàn thân chứ không thường xuyên bị ở chi dưới như bệnh Viêm tắc tĩnh mạch, do đó có thể thấy dấu hiệu các động mạch căng như sợi thừng ở động mạch thái dương, động mạch cánh tay, động mạch quay…
+ Đau ở vùng chi có động mạch bị xơ vữa nhưng thường không dữ dội, vận động nhiều có đau hơn nhưng bắt mạch ngoại vi vẫn thấy đập rõ.
+ Có thể có hoại tử vùng chi có xơ vữa động mạch nhưng thường
xuất hiện ở người già, có cao huyết áp, tăng Cholesterol máu…
3. Bệnh Raynaud:
+ Thường gặp ở Nữ giới, tuổi trẻ.
+ Bệnh tiến triển thành từng đợt, tổn thương chủ yếu là ở đầu chi và
đối xứng cả hai bên.
V. Điều trị:
1. Điều trị nội khoa:
a) Loại bỏ các yếu tố kích thích gây có thắt mạch máu:
Tránh các điều kiện môi trường lạnh, ẩm. Không hút thuốc. Tránh
các căng thẳng về tâm lý và sinh lý. Chế độ ăn uống đầy đủ các chất và Vitamin…
b) Dùng các thuốc chống co thắt mạch máu:
+ Dùng các thuốc giãn cơ trơn như: Achetylcholine, Papaverin, Nospa…
+ Tiêm Novocain động mạch: có thể dùng Novocain 1% tiêm động mạch mỗi lần 10 ml, ngày tiêm 1-2 lần. Sau 15-20 lần tiêm bệnh có thể đỡ hẳn.
c) Lý liệu pháp:
Chiếu sóng ngắn, liệu pháp Ion ganvanic với Novocain, xoa bóp…
2. Điều trị ngoại khoa:
a) Các phương pháp tác động lên hệ thần kinh giao cảm:
+ Mổ cắt bỏ mạng lưới thần kinh giao cảm quanh động mạch:
– Mạng lưới thần kinh giao cảm nằm ở lớp vỏ bao quanh thành động mạch. Trong cơ chế bệnh sinh của bệnh Viêm tắc động mạch, hệ thần kinh giao cảm này đóng một vai trò không nhỏ trong vòng phản xạ bệnh lý của bệnh. Việc mổ cắt bỏ mạng lưới này là cắt bỏ được một khâu trong vòng phản xạ bệnh lý đó.
– Thường tiến hành bộc lộ đoạn động mạch ở phía trung tâm của động mạch bị viêm tắc. Bóc tách và cắt bỏ lớp vỏ ngoài của động mạch trên một đoạn khoảng 2-3 cm. Có thể tiêm thêm khoảng 20 ml Novocain 0,25-0,5% vào động mạch khi đóng lại vết mổ.
+ Cắt đôi động mạch rồi lại khâu nối lại: Phương pháp này có tác dụng như mổ cắt bỏ mạng lưới giao cảm quanh động mạch.
+ Mổ cắt bỏ các hạch thần kinh giao cảm thắt lưng 2,3 và 4:
Các hạch giao cảm thắt lưng 2,3,4 là các hạch giao cảm chi phối cho các động mạch chi dưới. Cắt bỏ các hạch này cũng có tác dụng cắt bỏ được một khâu trong vòng phản xạ bệnh lý của bệnh Viêm tắc động mạch ở các động mạch chi dưới.
+ Mổ cắt bỏ Tuyến thượng thận:
Phương pháp này được tiến hành dựa trên cơ chế là cắt bỏ Tuyến thượng thận sẽ làm giảm được các Adrenalin do tuỷ Tuyến thượng thận tiết ra, nhờ đó giảm được tình trạng co thắt động mạch.
b) Các phẫu thuật phục hồi tuần hoàn vùng chi bị viêm tắc động mạch:
+ Mổ cắt bỏ lớp nội mạc và lấy bỏ các cục nghẽn động mạch:
Tiến hành mở thành động mạch ra. Cắt bỏ lớp nội mạc động mạch bị viêm dày, lấy bỏ các cục nghẽn trong lòng động mạch. Khâu lại thành động mạch.
+ Mổ ghép mạch máu:
– Tiến hành bộc lộ và cắt bỏ đoạn động mạch bị Viêm tắc.
– Dùng một đoạn mạch máu để ghép thay vào đoạn động mạch đã bị cắt bỏ. Đoạn mạch ghép có thể là một đoạn Tĩnh mạch hiển trong của chính bệnh nhân (ghép tự thân), đoạn động mạch lấy từ người đã chết (ghép đồng loại) hay đoạn mạch máu nhân tạo
+ Làm thông mạch máu bằng kỹ thuật can thiệp nội mạch máu:
Hiện nay phương pháp này đang được nghiên cứu và áp dụng ngày càng rộng rãi. Có thể dùng các biện pháp sau:
– Nong rộng đoạn động mạch bị hẹp do viêm tắc: đưa bóng nong vào lòng động mạch đến đoạn động mạch hẹp, bơm bóng cho căng ra để nong rộng lòng động mạch.
– Đặt Sten vào đoạn động mạch hẹp: Sten là một khung có độ cứng nhất định, được đặt trên một bóng nong động mạch. Tiến hành đưa bóng nong đó vào động mạch đến chỗ động mạch hẹp và bơm lên để làm giãn thành động mạch ra đồng thời gài Sten đó nằm lại chỗ động mạch vừa được nong ra. Phương pháp này giúp tránh được tình trạng động mạch bị xẹp lại sau khi nong.
– Cắt bỏ nội mạc động mạch và các cục nghẽn bằng một dụng cụ đặc biệt: dụng cụ này gồm một lưỡi khoan nhỏ kèm theo ống hút, đưa dụng cụ này vào đến chỗ động mạch bị viêm tắc và cho máy chạy. Lưỡi khoan sẽ cắt vụn tất cả lớp nội mạc bị viêm dày và các cục nghẽn trong lòng động mạch, các mảnh vụn sẽ được hút ngay ra ngoài theo ống hút. Nhờ đó lòng động mạch sẽ được thông trở lại.
c) Phẫu thuật cắt cụt chi bị viêm tắc động mạch:
Đây là biện pháp điều trị cuối cùng phải dùng đến, khi tình trạng hoại tử chi phát triển làm cho bệnh nhân đau đớn và suy sụp nặng.
Dấu hiệu viêm tắc động mạch
VI. Tiên lượng:
Bệnh tiên lượng nặng, tiến triển có tính chất chu kỳ, những cơn đau cấp tính giảm đi khi điều trị và bất động các chi, nhưng sau đó lại tái phát kịch phát khi bị lạnh, chấn thương hay hút thuốc. Dần dần thời kỳ bệnh giảm rút ngắn lại, thời kỳ kịch phát kéo dài ra, và cuối cùng biến thành một bệnh không thể chữa khỏi ngoài phương pháp cắt cụt chi. Sau khi cắt cụt chi, quá trình viêm tắc mạch có thể lại chuyển sang chân bên kia và đôi khi chuyển lên cả chi trên
Bệnh tim bẩm sinh đang là nỗi lo và là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ hiện nay,nhưng nếu trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh được phát hiện sớm và điều trị đúng cách sẽ có thể giúp trẻ phát triển và hòa nhập tốt vào xã hội.
Phần lớn thông nhĩ không dẫn đến suy tim. Độ chênh áp lực giữa 2 buồng nhĩ không cao do đó thông nhĩ cũng không bị biến chứng viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Do đó thường không cần phải dùng kháng sinh dự phòng khi nhổ răng, chữa răng hoặc làm thủ thuật ngoại khoa.
Bằng phẫu thuật tuần hoàn ngoài cơ thể, đóng lỗ thông liên nhĩ bằng cách khâu trực tiếp hay bằng miếng vá tổng hợp. Thông nhĩ có thể tự đóng với tần suất từ 14Chỉ định phẫu thuật: tuổi phẫu thuật thay đổi có tác giả cho nên mỗ ở tuồi đi học từ 3- 5, hoặc có thể mỗ ở tuổi từ 15 -20 tuy vậy nhìn chung chỉ định phẫu thuật thông nhĩ thường không khẩn cấp như thông thất vì biến chứng tăng áp phổi thường xẩy ra muộn hơn. Có nghiên cứu cho người lớn tuổi mới phát hiện cũng nên mỗ. Chỉ định thường thống nhất khi:
Chỉ số dòng máu phổi/ chỉ số dòng máu động mạch toàn thể (1.5/l)
Chưa đổi shunt (nồng độ O2 bảo hòa động mạch (92% hoặc sức cản ĐMP < 15 đơn vị Woods/m2 cơ thể).
Không phẫu thuật khi: áp lực động mạch phổi đo bằng Doppler gần bằng áp lực mạch hệ thống, luồng thông rất ít và 2 chiều, độ bảo hoà O2 lúc nghĩ dưới 92% và giảm hơn khi gắng sức. (Viện tim TP Hồ chí Minh)
3.1 Thông liên thất (Thông liên thất)
Về nội khoa nói chung cần điều trị các biến chứng của Thông liên thất như suy tim, bội nhiễm phổi, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng. Phẫu thuật trẻ sơ sinh thường có tử vong cao 10-20% so với trẻ lớn 2%. Thông liên thất cũng có thể tự đóng, các trường hợp nặng để lâu dễ chuyển sang hội chứng Eisenmenger khó khăn khi phẫu thuật.
3.2 Thông thất có lỗ thông nhỏ, shunt nhỏ
Không có chỉ định ngoại khoa vì bệnh nhân thích nghi tốt. Chỉ cần dự phòng nhiễm trùng nội tâm mạc. Tuy vậy Thông liên thất lỗ nhỏ có kèm hở van động mạch chủ (hội chứng Laubry – Pezzi) dù nhẹ cũng nên mỗ sớm.
3.3 Thông thất lớn, shunt trái – phải lớn (thông liên thất nhóm II)
Chiếm 50%. Nội khoa giúp điều trị các biến chứng hai khi bệnh nhân không có chỉ định phẫu thuật. Điều trị chủ yếu ngoại khoa với tuần hoàn ngoài cơ thể, bằng cách dùng miếng vá nhân tạo. Nguy cơ tử vong từ 1-2% trong thể nhẹ và < 10% trong thể nặng. Tai biến phẫu thuật thường gặp do tổn thương bó His gây bloc nhĩ thất hay bloc nhánh.
Chỉ định: nên đặt vấn đề sớm tuổi từ 2 -10, chỉ số áp lực động mạch phổi/ áp lực động mạch toàn thể (0.75 kèm theo suy tim cần phẫu thuật ngay. Nếu suy tim ổn định khi điều trị nội khoa
Ngoài hai nhóm máu lâm sàng trên còn hai nhóm đặc biệt khác ít gặp hơn:
Nhóm III với sự tăng áp phổi nặng, gần với hội chứng Eisenmenger nhưng shunt trái-phải vẫn còn dù rất yếu. Không có chỉ định phẫu thuật.
Nhóm IV với hẹp van hay phễu ĐMP (Thông liên thất có bảo vệ phổi) gần với tứ chứng Fallot, nhưng shunt trái – phải vẫn còn dù rất yếu. Cần phẩu thuật nếu dày thất phải rõ.
3.4 Còn ống động mạch
Tất cả bệnh nhân Còn ống động mạch nếu không tự đóng được cần chỉ định phẫu thuật do có nhiều nguy cơ nếu không giải quyết như: viêm nội tâm nhiễm trùng, suy tim trái, tăng áp phổi, vôi hoá ống động mạch.
Nội khoa
Ở trẻ sơ sinh và còn bú có thể dùng indometacine (Indocid) 25mgx 1-2 viên/ngày 1 tháng làm đóng lại ống động mạch do thuốc ức chế tác dụng co thắt của Prostacycline. Có tác giả sử dụng Aspirine cũng có kết quả. Nếu không có kết quả.
Ngoại khoa
Bằng thủ thuật cắt buộc hay nút lỗ thông nếu lỗ thông đường kính dưới 5mm và trẻ (8kg. Áp dụng phẫu thuật với tuổi từ 1-2 tuổi nhưng có thể lớn hơn nhưng chưa đổi shunt. Tỷ lệ nguy cơ tử vong khi phẫu thuật từ 1-2% do suy tim, Osler.
Theo Kirklin tất cả Còn ống động mạch có triệu chứng hoặc trẻ không lớn dù đã điều trị nội khoa tích cực có thể phẫu thuật ở bất kỳ tuổi nào.
Còn ống động mạch với shunt lớn và tăng áp phổi nhẹ:
Điều trị ngoại khoa: Cắt buộc. Nguy cơ tử vong cao hơn so với nhóm trên.
Còn ống động mạch với shunt nhỏ và tăng áp lực phổi nặng.
Điều trị: Chỉ định phẫu thuật cần bàn cải.
Nếu sức cản áp lực phổi trên 10 đv /m2, không còn chỉ định phẫu thuật. Nếu sức cản mạch phổi thấp hơn nhưng ống động mạch ngắn, vôi hoá nhiều nên phẫu thuật tim hở tránh vỡ động mạch khi kẹp trong phẫu thuật kín.
3.5 Tứ chứng Fallot
Nội khoa:
Điều trị chỉ có tính tạm thời, làm bớt các triệu chứng chuẩn bị cho phẫu thuật. Giảm sự tống máu thất phải bằng các thuốc ức chế bêta như propanolol 40mg x 1 v uống. Cho thuốc chống đông hay chống ngưng tập tiểu cầu như Aspirine 0.25g/ ngày. Trẻ sơ sinh có tuần hoàn phổi không đủ có thể chuyền prostaglandine E1 để giữ ống động mạch mở. Tất cả trẻ có dung tích hống cầu cao cần cho thêm viên sắt uống. Chống cơn thiếu Oxy kịch phát: cho nằm đầu thấp gối – ngực, O2, Morphine 1ctg 0.01-0.1 mg/kg TB, truyền natri bicarbonate.
Ngoại khoa:
Có thể phẫu thuật tạm thời hoặc phẫu thuật sửa chữa. Tuổi lý tưởng để phẫu thuật sửa chữa hay tận gốc (vá lỗ thông thất bằng mảnh ghép và sửa chữa hẹp ĐMP rộng ra) là 2 tuổi. Để chậm tuổi lớn sẽ có nhiều biến chứng sau mổ.
Tình trạng thất trái và kích thước động mạch phổi là những yếu tố quan trọng giúp quyết định kỹ thuật nầy.
Về phẫu thuật tạm thời có hay kỹ thuật thông dụng là Blalock – Taussig (nối hạ đòn trái và nhánh trái ĐMP) và Blalock – Taussig có biến cải (nối bằng ống Gore- Tex). Không thực hiện phẫu thuật Blalock – Taussig ở trẻ nhỏ dưới 6 tháng tuổi hoặc ĐMP có đường kính (3mm vì dễ bị thuyên tắc.
Cần giải phẫu sớm khi triệu chứng cơ năng ngày càng tăng hoặc thể tích hồng cầu khoảng 65%.
Tỷ lệ tử vong khoảng < 5% đối với Blalock và 10% đối với điều trị tận gốc. Kỹ thuật Blalock chỉ cho kết quả tốt trong khoảng 50% trường hợp trong vòng 10 năm.
3.6 Hẹp động mạch phổi
Nội khoa: ít có tác dụng. Được coi nhẹ khi độ chênh áp lực thất phải/ ĐMP (25 mmHg, nặng khi độ chênh từ 25-50 mmHg. Can thiệp càng chậm càng hẹp nặng hơn do phì đại vùng phễu. Có thể áp dụng phương pháp nông van thay cho phẫu thuật mở. Hiện nay chỉ định nong bóng qua da nhưng có giá trị cao nếu tuổi nhỏ. Đây là phương pháp chọn lọc, tử vong hầu như không có.
Ngoại khoa: chỉ áp dụng khi không nong van qua da được. Khi áp lực thất phải cao hơn áp lực động mạch phổi trên 50 mmHg. Phẫu thuật tạo van động mạch phổi hai lá có kèm theo hay không sửa chữa phễu phổi. Khi có suy tim phải tỉ lệ tử vong cao trên 14%.
3.7 Hẹp eo động mạch chủ
Ngoại khoa: Cần đặt vấn đề phẫu thuật ngay khi bệnh nhân còn chịu đựng được. Tuổi lý tưởng là từ 10 -15 tuổi, về sau nguy cơ cao do bị xơ vữa phối hợp. Nguy cơ tử vong dưới 5%. Phẫu thuật bằng cách nối tận hoặc bắt cầu nối bằng ống nhân tạo.
Phức hợp và hội chứng EISENMENGER
Nội khoa: điều trị biến chứng suy tim: O2, trợ tim, lợi tiểu…
Ngoại khoa: không có chỉ định phẫu thuật ngoại trừ thay tim.
Bệnh tim bẩm sinh là những dị tật tim và mạch máu lớn tạo nên do những bất thường trong bào thai ở tháng thứ 2-3 của thai kỳ, vào giai đoạn hình thành các mạch máu lớn từ ống tim nguyên thủy.
Bệnh tim bẩm sinh cần phát hiện sớm ở trẻ
I. BỆNH NGUYÊN
Các bệnh người mẹ mắc phải trong thời kỳ thai nghén: Nhiễm siêu vi chủ yếu là bệnh đào ban (Rubella), hội chứng Rubella thường có điếc, đục thủy tinh thể, đầu bé và có thể phối hợp với còn ống động mạch, hẹp van động mạch phổi, thông liên thất.
Các yếu tố di truyền có hoặc không rối loạn nhiễm sắc thể như mắc tim bẩm sinh trong hội chứng Marfan, lệch khớp háng, hội chứng Down, biến dị đơn gene cũng được đề cập đến trong di truyền mang tính gia đình của bệnh thông liên thất, thông liên nhĩ, đảo phủ tạng…
Gần đây người ta phát hiện ở những bà mẹ nghiện rượu mà mang thai có thể sinh ra trẻ có dị tật bẩm sinh gọi là hội chứng rượu đối với bào thai, gồm đầu bé, mắt ti hí, trán gồ, hàm nhỏ, chậm phát triển thai nhi, thông liên thất, thông liên nhĩ…
II. SƠ BỘ PHÂN LOẠI
Loại Shunt trái – phải: là loại tim bẩm sinh không có tím. Máu chảy từ bên trái có áp lực cao sang bên phải có áp lực thấp hơn. Tuy nhiên lâu ngày do tăng áp lực động mạch phổi nặng nề có thể đảo shunt lúc đó người ta gọi là hội chứng Eisenmenger. Trong nhóm này hay gặp thông liên nhĩ, thông liên thất, còn ống động mạch.
Bệnh tim bẩm sinh loại có Shunt trái – phải
Loại có Shunt phải – trái: Thường là những dị tật gây tăng áp lực khoang tim phải làm máu từ phải sang trái gây trộn lẫn máu động mạch và máu tĩnh mạch phát sinh tím, tím xuất hiện khi Hb > 5g/100ml và độ bão hòa O2 < 70%, đây là bệnh tim bẩm sinh gây tím. Các bệnh thuộc nhóm này như tứ chứng Fallot, tam chứng Fallot, Ebstaine.
Loại không có Shunt: là dị tật bẩm sinh trong tim hay trên các mạch máu lớn nhưng không có shunt như hẹp eo động mạch chủ, hẹp dưới van chủ hay phổi…
Bài viết sau đây sẽ giới thiệu các loại dụng cụ thông thường trong phẫu thuật.
Mục tiêu:
1. Biết được một số dụng cụ thông thường trong phẫu thuật.
2. Biết cách sử dụng một số dụng cụ thông thường.
3. Hiểu cấu trúc các dụng cụ kim loại.
1. Đại cương về các loại dụng cụ thông thường trong phẫu thuật
Dụng cụ kim loại dùng trong phẫu thuật phải có những tính chất sau:
Trước đây làm bằng sắt hoặc thép rồi mạ để tránh rỉ, nhưng nay đều làm bằng hợp kim, hợp kim này không rỉ, nhẹ, chắc, mặt ngoài nhẵn nhưng không bóng để tránh phản chiếu ánh sáng. Các chữ hay số trên dụng cụ không còn được dập sâu vào dụng cụ mà thay bằng áp điện để dễ cọ rửa và tiệt trùng.
Những dụng cụ dễ mòn do cặp vào vật cứng hay dùng thường xuyên được gia công thêm một bản carbon, rất cứng (Thí dụ: 2 má của kéo, kìm cặp kim…). Những dụng cụ này được mạ vàng phía chuôi để dễ phân biệt trong khi dùng (Hình 1.3-C, 1.4e).
Sau khi dùng xong, các dụng cụ này trước đây được ngâm trong nước, rồi dùng bàn chải cọ sạch dưới vòi nước. Làm như vậy dễ làm hỏng dụng cụ (mòn) và khó có thể cọ ở các khe, máu vẫn bám vào, khi tiệt trùng (lò sấy) sẽ két lại. Nay dùng một dung dịch có tính chất làm tiêu-tan các chất bám vào dụng cụ (mỗi hãng sản xuất đặt một tên khác nhau, căn bản là có enzym), ngâm một thời gian, xả nước sạch rồi đưa vào lò sấy.
Đối với những dụng cụ mổ vi phẫu, rất mỏng mảnh và rất đắt nên lại càng phải hết sức thận trọng khi dùng cũng như khi lau chùi, tiệt trùng. Những dụng cụ này thường được cài từng chiếc lên một khay sao cho các dụng cụ không va chạm, nằm đè lên nhau sẽ làm cong hay gẫy nhất là khi đang sấy ở nhiệt độ cao.
2. Nguyên tắc sử dụng
Mỗi dụng cụ làm ra nhằm thực hiện một mục đích riêng, do đó không được tuỳ tiện dùng làm việc khác sẽ hỏng (Thí dụ: kìm cặp kim nhỏ cho chỉ 5-0, 6-0 không được dùng để cặp kim khâu cơ hay khâu da, chỉ cần trót cặp nhầm một lần là đã hỏng phải vứt bỏ mà mỗi kìm này giá vài triệu đồng; kéo phẫu tích không được dùng để cắt chỉ…).
Khi cặp vào một tạng hoặc một mô tinh tế (não, thành mạch…) mà không định cắt bỏ thì không được dùng các loại kẹp có răng.
Không bao giờ hai người cầm một dụng cụ: người phụ đang cầm nhưng nếu người mổ cần đến (để đặt lại, để khâu…) thì người phụ phải thả ngay dụng cụ đó, nếu không rất dễ rách phần mô đang cặp.
Trong khi mổ, không bao giờ nhóm mổ (người mổ chính và người phụ mổ) được tự mình thò tay lên bàn dụng cụ để lấy mà phải nói qua dụng cụ viên, chính vì vậy người mổ cũng phải biết tên dụng cụ mà gọi. Một khi đã làm việc thành thạo, người mổ chỉ việc chìa tay, không cần nói, dụng cụ viên cũng tự biết phải đưa dụng cụ nào.
3. Cách sử dụng một số loại dụng cụ phẫu thuật cơ bản
3.1. Kẹp phẫu tích
Kẹp được giữ bằng ngón cái và ngón trỏ như kiểu cầm bút.
3.2. Kéo.
Luồn ngón cái vào một vòng, vòng kia là ngón giữa hay ngón nhẫn, ngón trỏ đỡ kéo.
3.3. Kìm cặp kim.
Cầm như cầm kéo để dễ dàng mở và khép kìm. Không được dùng cả bàn tay nắm lấy kìm vì như vậy mỗi khi mở hay khép lại phải chuyển tay trở về tư thế như kiểu cầm kéo, động tác này không những mất thêm thì giờ mà điểm chính là gây rách mô đang khâu nhất là những mô mỏng, dễ nát mỗi khi chuyển tay. Chỉ trừ khi phải khâu qua một mô rất cứng, rất dai (xương, mô xơ dày…) mà kim lại cùn thì mới nắm như vậy để có sức.
Kìm kẹp kim.
Khi mổ do vị trí đứng nên không phải luôn luôn thuận chiều cầm dụng cụ, bắt buộc người mổ (cả người mổ chính và phụ mổ) phải sử dụng linh hoạt hơn. Điều chủ yếu là phải sử dụng cổ tay, làm sao bàn tay có thể ở mọi tư thế khi sử dụng, không thể chỉ biết sấp-ngửa. Mặt khác, thí dụ như kẹp Kocher, phải biết mở kẹp cả tay phải lẫn tay trái, cả xuôi chiều lẫn trái chiều (vòng tay sang đối diện để mở ngược trở lại).
3.4. Dao mổ
Trước đây là loại dao mổ cán liền lưỡi. Loại này phải luôn luôn mài cho sắc. Nay gần như đã thay thế hoàn toàn bằng loại cán rời, loại này có lợi là các lưỡi dao tháo lắp đơn giản, dùng một lần vứt lưỡi đi không bao giờ phải mài, có rất nhiều loại lưỡi khác nhau,
Cán dao mổ và các loại lưỡi dao.
Cầm dao mổ có hai cách: cách thông thường là cầm như kiểu cầm cán kéo khi chơi vĩ cầm để rạch da, nhưng khi rạch da xong thì gần như ai cũng cầm theo kiểu cầm bút.
Câu hỏi lượng giá:
1. Hãy nêu những nguyên tắc khi sử dụng dụng cụ mổ.
Viêm tai giữa là bệnh thường gặp nhưng có thể để lại hậu quả khôn lường. Vì vậy khi có nghi ngờ hoặc phát hiện bệnh cần đưa đi khám để được điều trị hợp lý tránh tình trạng tự ý mua thuốc tự điều trị.
Bệnh viêm tai giữa là căn bệnh thường gặp ở mọi đối tượng khác nhau, theo đó bệnh có thể để lại nhiều biến chứng nguy hiểm nên khi xác định được căn bệnh cần có sự phân loại viêm tai giữa cấp tính hay mạn tính, vì nguyên tắc điều trị có khác nhau. Cụ thể:
Viêm tai giữa cấp tính
Trong viêm tai giữa cấp tính, đối tượng hay gặp là ở trẻ em, phần lớn bệnh bắt nguồn từ viêm mũi họng cấp như viêm amidan, viêm VA, viêm họng cấp…Điều trị trong trường hợp cấp tính lại khác nhau ở mỗi giai đoạn của bệnh. Giai đoạn đầu tiên của bệnh là giai đoạn xung huyết, lúc này trong tai chưa có ứ đọng mủ. Điều trị giai đoạn này chủ yếu là điều trị các bệnh viêm mũi họng. Khi các bệnh viêm mũi họng được chữa khỏi, bệnh tai giữa cũng tự khỏi.
Sau giai đoạn xung huyết là giai đoạn ứ mủ, lúc này mủ ứ đọng trong tai giữa làm màng nhĩ căng phồng gây đau đớn và sốt cao, ở giai đoạn này cần có nguyên tắc điều trị phù hợp: trích rạch màng nhĩ để tháo mủ, dùng thuốc rửa viêm tai giữa để rửa hằng ngày, cân nhắc việc dùng thuốc kháng sinh cho trẻ, dùng thuốc giảm đau hạ sốt để điều trị triệu chứng cho trẻ, và giải quyết các vấn đề mũi họng nếu có.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn chảy mủ. Giai đoạn này sẽ xuất hiện nếu giai đoạn ứ mủ không được điều trị hiệu quả và dứt điểm, lúc này màng nhĩ sẽ bị rách, mủ chảy ra ngoài, giai đoạn này đau, sốt thuyên giảm thường gây lầm tưởng cho cha mẹ là bệnh đã khỏi, ở giai đoạn này cần điều trị như sau: dùng thuốc rửa viêm tai giữa hằng ngày và theo dõi đến khi màng nhĩ liền lại, dùng thuốc kháng sinh tùy tình trạng nhiễm khuẩn của trẻ, và giải quyết các vấn đề mũi họng nếu có.
Viêm tai giữa mạn tính
Viêm tai giữa mạn tính được xác định khi có thời gian chảy mủ trên 6 tuần, bệnh gặp ở mọi lứa tuổi, người lớn mắc viêm tai giữa chủ yếu là tình trạng này. Điều trị viêm tai giữa mạn tính rất khó khăn và có thể để lại di chứng như giảm sức nghe, thậm chí là điếc hoàn toàn.
Theo đó, trong viêm tai giữa mạn tính được chia là 2 loại:
Viêm tai giữa mủ nhầy: ở giai đoạn này có thể gây viêm ống tai ngoài, xơ màng nhĩ, hoặc điếc. Nguyên tắc điều trị viêm tai giữa thể này cần chú ý: dùng thuốc rửa viêm tai giữa, nhỏ kháng sinh, chống viêm vào tai, điều trị các vấn đề mũi họng nếu có.
Những sai lầm khi điều trị viêm tai giữa
Thể thứ 2 là viêm tai giữa có tổn thương xương. Đây là thể bệnh nguy hiểm nhất của viêm tai giữa, bệnh gây hoại tử xương, có thể dẫn tới điếc, viêm xương chũm, viêm não- màng não, và ảnh hưởng đến tính mạnh. Nguyên tắc điều trị cho thể này là: sử dụng phương pháp phẫu thuật là chính, mục đích để dẫn lưu mủ, lấy bệnh tích và vá màng nhĩ, phục hồi chức năng nghe cho tai, điều trị triệt để các bệnh viêm mũi họng.
Những sai lầm khi điều trị viêm tai giữa
Theo các bác sĩ điều trị bệnh học chuyên khoa cho biết, không phải cứ viêm tai giữa là dùng kháng sinh. Tùy từng thể bệnh, giai đoạn bệnh mà bác sĩ điều trị sẽ quyết định viêm tai giữa có dùng kháng sinh hay không. Ví dụ viêm tai giữa xung huyết chỉ cần điều trị viêm mũi họng thì viêm tai giữa sẽ tự khỏi.
Không dùng nước rửa oxy già, vì đây là chất sát khuẩn mạnh, sẽ làm tổn thương niêm mạc. Nếu dùng lâu dài sẽ gây xơ hẹp ống tai, làm giảm khả năng nghe của trẻ. Mặt khác không rắc các loại thuốc, các loại lá vào tai theo kinh nghiệm, vì nhiều người tự ý nghiền thuốc kháng sinh thành bột rồi rắc vào tai để điều trị viêm tai giữa, điều này sẽ gây bít tắc màng nhĩ khiến mủ không thoát ra ngoài được làm bệnh nặng thêm, dễ gây viêm tai giữa mạn tính và gây tổn thương xương khớp.