Mỗi ngày, BV Nội tiết Trung ương tiếp nhận gần 2.800 người đến khám ngoại trú và hơn 1.000 BN điều trị nội trú. Chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu có ý nghĩa quan trọng trong hiện đại hóa quy trình chăm sóc sức khỏe, quản lý hồ sơ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện trải nghiệm cho người bệnh.
Hội nghị khoa học Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2025 với thông điệp “Quản lý – Chăm sóc toàn diện bệnh Nội tiết – Đái tháo đường – Rối loạn chuyển hóa trong thời kỳ chuyển đổi số” (diễn ra ngày 12 và 13/9/2025) khẳng định quyết tâm của bệnh viện trong việc ứng dụng công nghệ, cập nhật y học hiện đại, mang đến dịch vụ y tế thông minh, nhân văn và gần gũi hơn với cộng đồng.
Người bệnh là trung tâm của hệ thống chăm sóc
Chia sẻ bên lề hội nghị, PGS.TS Phan Hướng Dương – Phó Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho biết: “Xu hướng y học hiện đại trên thế giới đều lấy người bệnh làm trung tâm. Việc điều trị ngày nay không chỉ dừng lại ở thăm khám, kê đơn, mà là một quá trình quản lý toàn diện, bao gồm tầm soát biến chứng, can thiệp sớm, chăm sóc thể chất kết hợp tinh thần.
Tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương, các khoa điều trị đang mở rộng dịch vụ chăm sóc, thẩm mỹ và tư vấn tinh thần nhằm giúp người bệnh nâng cao chất lượng sống. Người bệnh cũng được theo dõi và tư vấn từ xa, ngay tại nhà, thông qua hệ thống công nghệ thông tin của bệnh viện. Điều này khẳng định phương châm: bệnh viện không chỉ chữa bệnh, mà còn chăm sóc con người toàn diện”.
Người dân đến đăng ký khám và trải nghiệm hệ thống ki-ốt thông minh tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương.
Ở lĩnh vực nội tiết – chuyển hoá, đặc biệt là đái tháo đường, tốc độ gia tăng bệnh nhân ngày càng nhanh và có xu hướng trẻ hóa. Hiện Việt Nam có khoảng 7,3 triệu người mắc đái tháo đường nhưng chỉ 1/3 trong số đó được chẩn đoán và điều trị. Trong khi đó, các phương pháp điều trị, từ thuốc men đến kỹ thuật y khoa, đều phát triển với tốc độ vượt bậc trên toàn cầu.
“Chính vì vậy, các bác sĩ luôn nỗ lực cập nhật các phác đồ, thuốc mới, đồng thời báo cáo và tham mưu cho Bộ Y tế để triển khai rộng rãi trong hệ thống y tế. Đây là cách duy nhất để bảo đảm người bệnh tại Việt Nam được tiếp cận những tiến bộ y học ngang tầm quốc tế” – PGS.TS Phan Hướng Dương nhấn mạnh.
Theo khảo sát năm 2020, có tới 6,3% dân số mắc đái tháo đường nhưng chưa được chẩn đoán. Điều này đồng nghĩa, hàng triệu người chỉ phát hiện bệnh khi đã có biến chứng. Từ hội nghị khoa học lần này, các bác sĩ kêu gọi người dân nâng cao ý thức tầm soát định kỳ, ít nhất mỗi 6 – 12 tháng nên kiểm tra đường huyết.
Hiện nay, nhờ sự hỗ trợ của công cụ số hóa và nền tảng tư vấn trực tuyến, người bệnh dễ dàng tiếp cận thông tin, được hướng dẫn chăm sóc ngay tại nhà – từ chế độ ăn uống, vận động cho tới theo dõi biến chứng.
Chuyển đổi số trong y tế không chỉ là công nghệ, mà chính là cầu nối đưa dịch vụ y tế đến gần hơn với cộng đồng, giúp phát hiện sớm bệnh, điều trị kịp thời, hạn chế tối đa biến chứng nguy hiểm.PGS.TS Phan Hướng Dương khẳng định.
Hoàn thiện mô hình ‘bệnh viện thông minh’
Trong bối cảnh cả nước đẩy mạnh chuyển đổi số, y tế là một trong những lĩnh vực đi đầu. Với bệnh viện, chuyển đổi số giúp quản lý thông minh hơn, tiết kiệm nhân lực, thời gian và chi phí. Người bệnh được hưởng lợi rõ rệt như: đăng ký khám trực tuyến, lựa chọn bác sĩ, sử dụng mã QR để rút ngắn thủ tục hành chính, tiếp cận dịch vụ nhanh chóng.
Đặc biệt, việc triển khai bệnh án điện tử đã mở ra một kỷ nguyên mới: dữ liệu y khoa được kết nối, lưu trữ và khai thác đồng bộ, giúp bác sĩ có thể theo dõi toàn bộ quá trình điều trị, từ đó đưa ra quyết định chính xác và kịp thời hơn. “Đây là ước mơ nhiều năm của chúng tôi – xây dựng một hệ thống y tế thông minh, minh bạch, nơi bác sĩ và người bệnh đều được hỗ trợ tối đa” – PGS.TS Phan Hướng Dương chia sẻ.
Ngày 12/9/2025, Bệnh viện Nội tiết Trung ương chính thức bấm nút triển khai áp dụng hồ sơ bệnh án điện tử. Bệnh án điện tử là một trong nhiều mục tiêu chiến lược chuyển đổi số y tế quốc gia của Chính phủ và Bộ Y tế. Việc chuyển đổi sang bệnh án điện tử giúp tất cả thông tin về tình trạng sức khỏe, lịch sử bệnh lý và quá trình điều trị của bệnh nhân được lưu trữ và quản lý trực tuyến. Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho bác sĩ và nhân viên y tế truy cập thông tin nhanh chóng, giảm thiểu sai sót trong quá trình chẩn đoán và điều trị, giảm áp lực khi khám chữa bệnh và vận hành quản lý.
Bệnh án điện tử là bước tiến đột phá trong việc hiện đại hóa quy trình chăm sóc sức khỏe, quản lý hồ sơ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện trải nghiệm của người bệnh.
Trước đó từ đầu năm 2025, bệnh viện đã triển khai phần mềm HIS, LIS, PACS, áp dụng bệnh án điện tử vào hoạt động khám chữa bệnh, điều trị nội trú, ngoại trú tại bệnh viện, các hệ thống phần mềm được kết nối tích hợp liên thông.
ThS. Đặng Ngọc Tú – Trưởng phòng Công nghệ thông tin của bệnh viện cho hay, bệnh viện đã trang bị khoảng 20 ki-ốt thông tin, ki-ốt tiếp đón người bệnh nhanh chóng, thuận tiện. Ngoài ra còn có ứng dụng đặt lịch khám online “BV Nội tiết TW”, thanh toán không dùng tiền mặt… làm giảm đáng kể thời gian chờ đợi khi khám chữa bệnh.
Bệnh viện cũng tiến hành chuyển đổi phần mềm khám, chữa bệnh triển khai lắp đặt hạ tầng mạng thiết bị kỹ thuật, hoàn thiện các hệ thống ứng dụng nâng cao EMR, PACS, quản lý điều dưỡng, quản lý đào tạo, quản lý chất lượng bệnh viện, quản lý văn phòng số, ký xác thực người bệnh qua VneID… Tất cả những bước đi này đang từng bước hoàn thiện mô hình “bệnh viện thông minh” trong tương lai gần.
TS.BS. Phan Hoàng Hiệp – Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương nhấn mạnh, chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn với ngành y tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực Nội tiết – Đái tháo đường – Rối loạn chuyển hóa nói riêng. Vì vậy, rất nhiều vấn đề thời sự được các chuyên gia tập trung thảo luận tại hội nghị như: ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ số trong quản lý, chẩn đoán và chăm sóc người bệnh; cập nhật tiến bộ trong điều trị đái tháo đường, rối loạn lipid máu, bệnh béo phì, ung thư tuyến giáp; tiếp cận chăm sóc toàn diện cho người bệnh trong bối cảnh đa chuyên khoa…
“Sự kiện lần này quy tụ hơn 1.000 đại biểu gồm các giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học, bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng trong và ngoài nước. Đây là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng trong cập nhật tri thức, ứng dụng công nghệ số, nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị và chăm sóc toàn diện người bệnh, góp phần xây dựng hệ thống y tế hiện đại, hiệu quả và bền vững” – TS.BS. Phan Hoàng Hiệp nói.
Ngành Y tế sẽ hiện thực hóa hợp tác công tư giữa bệnh viện công và tư nhân. Đây là một cơ hội lớn tạo ra đột phá để phát triển y tế tư nhân.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan phát biểu tại phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 8/2025 – Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Báo cáo nhiệm vụ của ngành y trong 8 tháng đầu năm
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2025, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, trong 8 tháng đầu năm, Bộ Y tế đã tập trung vào nhiều giải pháp, trong đó xây dựng hoàn thiện thể chế là một trong những nhiệm vụ mà Bộ Y tế đã triển khai tích cực để tháo gỡ những khó khăn, tồn tại trong lĩnh vực y tế.
Ngay trong đầu năm, Luật Dược và Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7. Đến thời điểm này, Bộ trưởng cho rằng, tất cả các văn bản hướng dẫn triển khai đã được xây dựng. Thông qua hai Luật này, những vướng mắc liên quan đến chính sách về bảo hiểm y tế, vấn đề gia hạn thuốc… đã được giải quyết cơ bản. Đây cũng là những vấn đề mà Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm và chỉ đạo trong thời gian vừa qua.
Liên quan đến công tác chống hàng giả, Bộ Y tế cho biết, Bộ đã phối hợp rất tích cực với Bộ Công an và các địa phương để tập trung triển khai các giải pháp chống hàng giả trong các lĩnh vực dược phẩm, mỹ phẩm và an toàn thực phẩm.
Trong công tác khám bệnh, chữa bệnh, cũng ngay trong đầu năm nay, các cơ sở y tế luôn quan tâm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cũng như sự hài lòng của người bệnh đối với công tác khám bệnh, chữa bệnh.
Hiện nay, Bộ Y tế cũng đã ký hợp tác với Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch để gắn kết giữa việc phát triển du lịch với công tác khám bệnh, chữa bệnh. Nếu làm tốt công tác nay, Bộ trưởng Đào Hồng Lan nhấn mạnh, ngành y tế sẽ góp phần tăng trưởng hai con số của đất nước trong thời gian tới.
Hiện thực hóa hợp tác công tư giữa bệnh viện công và tư
Đối với những vướng mắc liên quan đến vấn đề cấp cứu hiện nay, Bộ trưởng Đào Hồng Lan cho biết, Bộ Y tế đang triển khai đề án cấp cứu ngoại viện để phục vụ người dân khi triển khai thực hiện vấn đề cấp cứu ở ngoài bệnh viện.
Với lĩnh vực phát triển công nghiệp dược, sau khi Thủ tướng ban hành chiến lược phát triển lĩnh vực này, Bộ Y tế cũng đã triển khai những công việc cụ thể. Đến hiện tại, Bộ đã ký hợp tác sản xuất thuốc ung thư với Nga, phối hợp sản xuất vaccine với Pháp và sản xuất thuốc với Cuba cùng các nhà máy đã được đưa vào triển khai hoạt động. Đây là những tín hiệu rất tích cực của ngành dược trong những tháng đầu năm nay.
Cũng tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Y tế có đề xuất, trong thời gian tới, Bộ sẽ hiện thực hóa hợp tác công tư giữa bệnh viện công và tư nhân. Đây là một cơ hội lớn tạo ra đột phá để phát triển y tế tư nhân.
Trong một số trường hợp, người lao động ngừng đóng bảo hiểm y tế vẫn được tính là đang tham gia để áp dụng mức hưởng quyền lợi chi trả 100% chi phí khám, chữa bệnh.
Sáu trường hợp ngừng đóng bảo hiểm y tế vẫn được hưởng 100% chi phí khám, chữa bệnh. (Ảnh minh họa: ĐỖ THOA)
Người tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục được hưởng 100% chi phí khám, chữa bệnh
Theo Luật Bảo hiểm y tế, chỉ có một số nhóm được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả 95%-100% chi phí khám, chữa bệnh; còn lại chỉ được chi trả 80%, người bệnh cùng chi trả 20%. Tuy nhiên, người tham gia bảo hiểm y tế thuộc nhóm chỉ được chi trả 80% vẫn có thể được hưởng mức 100% nếu đáp ứng điều kiện đã tham gia bảo hiểm y tế liên tục từ 5 năm trở lên.
Cụ thể, điểm d khoản 1 Điều 22Luật Bảo hiểm y tế quy định người tham gia bảo hiểm y tế sẽ được hưởng 100% chi phí khám, chữa bệnh khi có thời gian tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả chi phí khám, chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 lần mức lương cơ sở.
Như vậy, để có mức hưởng 100%, điều kiện đầu tiên là người bệnh đã tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục. Tuy nhiên, có những trường hợp tham gia gián đoạn hoặc ngừng đóng bảo hiểm y tế nhưng vẫn được tính là đang tham gia bảo hiểm y tế liên tục. Điều này được quy định tại Điều 18 Nghị định số 188/2025/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế.
Sáu trường hợp đặc biệt
Theo Nghị định 188, có 6 trường hợp người tham gia ngừng đóng bảo hiểm y tế vẫn được tính tham gia bảo hiểm y tế 5 năm liên tục, được chi trả 100% chi phí khám, chữa bệnh gồm:
Thứ nhất là gián đoạn tham gia bảo hiểm y tế trong vòng 90 ngày.
Thứ hai là người được cơ quan có thẩm quyền cử đi công tác, học tập, làm việc; hoặc theo chế độ phu nhân/phu quân hoặc con đẻ, con nuôi hợp pháp dưới 18 tuổi đi theo bố/mẹ công tác nhiệm kỳ tại cơ quan Việt Nam ở nước ngoài thì thời gian ở nước ngoài được tính là thời gian tham gia bảo hiểm y tế.
Thứ ba là người lao động khi đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng và các trường hợp được cơ quan nhà nước cử đi làm việc ở nước ngoài. Thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm y tế trước khi đi làm việc ở nước ngoài sẽ được tính nối tiếp nếu khi về nước họ tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế (tham gia trong thời gian 30 ngày kể từ ngày nhập cảnh).
Thứ tư là trong thời gian người lao động làm thủ tục đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của Luật Việc làm (trừ thời gian từ ngày chấm dứt hợp đồng đến ngày được nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp) thì thời gian đã tham gia bảo hiểm y tế trước đó được tính là thời gian đã tham gia bảo hiểm y tế.
Thứ năm là 3 nhóm tham gia bảo hiểm y tế thuộc lực lượng vũ trang khi nghỉ hưu, xuất ngũ, chuyển ngành hoặc thôi việc, gồm:
Sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp đang tại ngũ; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật đang công tác trong lực lượng công an; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân.
Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội đang tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ trong công an; học viên quân đội, học viên công an, học viên cơ yếu hưởng sinh hoạt phí là người Việt Nam.
Học viên đào tạo sĩ quan dự bị từ 3 tháng trở lên chưa tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Với 3 nhóm trên, thời gian học tập, công tác trong quân đội, công an và tổ chức cơ yếu được tính là thời gian tham gia bảo hiểm y tế.
Trường hợp không đủ cơ sở để xác định thời gian tham gia bảo hiểm y tế, cơ quan bảo hiểm căn cứ vào một trong các giấy tờ do đơn vị của họ cấp có thể hiện quá trình công tác như: Sổ bảo hiểm xã hội, quyết định phục viên xuất ngũ, thôi việc; lý lịch; giấy xác nhận quá trình công tác của đơn vị cấp trung đoàn và tương đương trở lên để xác định thời gian tham gia bảo hiểm y tế.
Thứ sáu là dân quân thường trực khi thôi thực hiện nghĩa vụ. Với nhóm này, thời gian thực hiện nghĩa vụ được tính là thời gian tham gia bảo hiểm y tế.
Với việc ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến và phối hợp đa chuyên khoa để điều trị các khối u phức tạp, các bác sĩ Bệnh viện Đại học Phenikaa đã phẫu thuật thành công cắt toàn bộ tụy do ung thư.
Các bác sĩ tiến hành phẫu thuật cho người bệnh.
Ung thư tụy là một bệnh lý có tiên lượng xấu và trường hợp này càng trở nên khó khăn khi khối u đã lan rộng ra khắp tuyến tụy. Người bệnh được phát hiện tình trạng bệnh trong một lần kiểm tra sức khỏe định kỳ. Khối u được chẩn đoán có kích thước lớn, tăng sinh mạch toàn bộ tụy, huyết khối tĩnh mạch lách, đồng thời xâm lấn lách và đại tràng góc lách.
Tình trạng này đặt ca phẫu thuật trước nguy cơ mất máu nghiêm trọng, có thể đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người bệnh. Hơn nữa, sau khi cắt toàn bộ tụy, người bệnh sẽ có các nguy cơ rối loạn chuyển hóa do mất các chức năng tụy nội tiết và ngoại tiết.
Đối diện với thách thức này, các bác sĩ đã xây dựng một kế hoạch điều trị toàn diện, trong đó ưu tiên hàng đầu là bảo đảm an toàn cho người bệnh. Để giảm thiểu rủi ro chảy máu trong quá trình phẫu thuật, đội ngũ y tế đã quyết định sử dụng kỹ thuật nút mạch trước phẫu thuật.
Đây là một thủ thuật điện quang can thiệp nhằm hạn chế các mạch máu tăng sinh nuôi khối u, chuyển một khối u giàu mạch máu thành một khối u an toàn hơn để thực hiện phẫu thuật.
Quá trình này được thực hiện ngay tại phòng mổ, cho phép các bác sĩ có thể xử lý ngay lập tức các biến cố y tế nhằm bảo đảm an toàn tối đa cho người bệnh. Tình trạng đau của người bệnh cũng được kiểm soát ngay từ sau khi nút mạch.
Bệnh nhân hồi phục nhanh sau phẫu thuật.
Tiến sĩ, bác sĩ Trần Thanh Tùng, Trưởng Khoa Ngoại tổng hợp, Bệnh viện Đại học Phenikaa chia sẻ, ca bệnh này rất hiếm gặp và có mức độ phức tạp cao do khối u lớn, tăng sinh mạch và xâm lấn các tạng xung quanh. Nguy cơ chảy máu là yếu tố rủi ro lớn nhất.
“Việc kiểm soát thành công nguy cơ này nhờ kỹ thuật nút mạch là một bước rất quan trọng. Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sự phối hợp nhịp nhàng, ca phẫu thuật cắt toàn bộ tụy, lách và đoạn đại tràng góc lách diễn ra thuận lợi”, bác sĩ Tùng nói.
Bên cạnh đó, các bác sĩ gây mê hồi sức đã áp dụng kỹ thuật giảm đau mặt phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn siêu âm, giúp kiểm soát đau cho người bệnh một cách tối đa, an toàn và hiệu quả từ trước, trong và sau ca mổ, giúp hạn chế sử dụng các loại thuốc giảm đau opioid, người bệnh sớm hồi phục.
Người bệnh được áp dụng phác đồ tăng cường hồi phục sau phẫu thuật (ERAS – Enhanced Recovery After Surgery) với sự tham gia của các bác sĩ nội tiết, dinh dưỡng, dược lâm sàng, giảm đau…, nhờ đó, người bệnh đã có thể ngồi dậy tỉnh táo chỉ 17 giờ sau khi kết thúc ca mổ.
Đây là một kết quả đáng chú ý, bởi đối với một ca phẫu thuật lớn, trước đây người bệnh thường phải nằm bất động nhiều ngày và chịu nhiều đau đớn.
Thành công của ca bệnh này là một cột mốc quan trọng đối với bệnh viện, bởi không chỉ khẳng định năng lực chuyên môn của các y, bác sĩ trong việc điều trị các bệnh lý phức tạp mà còn cho thấy tầm quan trọng của việc ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến và phối hợp đa chuyên khoa.
Từ của ca bệnh này, các chuyên gia y tế cũng đưa ra lời khuyên đến cộng đồng về tầm quan trọng của việc chủ động bảo vệ sức khỏe. Ung thư tụy và nhiều bệnh lý nguy hiểm khác thường không có triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn sớm, khi phát hiện thường đã ở giai đoạn muộn và việc điều trị trở nên vô cùng khó khăn.
Do đó, việc khám sức khỏe định kỳ là biện pháp hiệu quả nhất để phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường, từ đó có kế hoạch điều trị kịp thời. Mỗi cá nhân cần nâng cao ý thức tầm soát sức khỏe, coi đây là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Sự chủ động này chính là chìa khóa để bảo vệ bản thân và gia đình khỏi những rủi ro sức khỏe không lường trước được.
Trong những năm qua, các quy định về phòng, chống tác hại của thuốc lá đã từng bước được hoàn thiện, từ luật đến nghị quyết của Quốc hội, nghị định của Chính phủ, thông tư, hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan nhằm giảm thấp nhất tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ người dân.
Tỷ lệ nam giới trưởng thành ở Việt Nam hút thuốc còn khá cao.
Năm 2012, Quốc hội ban hành Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá. Luật có hiệu lực từ ngày 1/5/2013 và đã trở thành quy định về pháp lý ở mức cao nhất, thể hiện quyết tâm trong ngăn chặn những hệ lụy của thuốc lá đối với sức khỏe người dân cũng như các lĩnh vực kinh tế-xã hội. Bộ Y tế với vai trò quản lý nhà nước về phòng, chống tác hại của thuốc lá đã phối hợp các bộ, ngành ban hành và thực thi nhiều quyết định, kế hoạch, chỉ thị, văn bản chỉ đạo điều hành về phòng, chống tác hại của thuốc lá. Nhờ đó, tỷ lệ người hút thuốc lá đã giảm đáng kể.
Trước sự gia tăng tỷ lệ thanh thiếu niên sử dụng thuốc lá thế hệ mới, tháng 11/2024, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 173/2024/QH15, trong đó quy định “Cấm sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, chứa chấp, vận chuyển, sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng, các loại khí, chất gây nghiện, gây tác hại cho sức khỏe con người từ năm 2025”. Như vậy, từ 1/1, thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng được coi là mặt hàng cấm tại Việt Nam. Đây là một quyết định nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng, giảm thiểu những hệ lụy nghiêm trọng mà thuốc lá gây ra, nhất là với thế hệ trẻ.
Tại kỳ họp tháng 6/2025 vừa qua, Quốc hội cũng đã thông qua Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi, bao gồm việc áp dụng hệ thống thuế tiêu thụ đặc biệt hỗn hợp áp dụng từ năm 2027, với lộ trình tăng thuế thuốc lá liên tục đến năm 2031 với mục tiêu giúp giảm tỷ lệ sử dụng và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Tổ chức Y tế thế giới đã trao tặng Bộ Y tế Việt Nam Giải thưởng Ngày thế giới không thuốc lá 2025 để ghi nhận vai trò lãnh đạo trong kiểm soát các sản phẩm thuốc lá mới.
Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá phát động chiến dịch tăng cường thực hiện môi trường không khói thuốc lá.
Tại Hội nghị toàn cầu về phòng chống tác hại của thuốc lá tại Dublin (Ireland), Phó Giám đốc Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá (Bộ Y tế) Phan Thị Hải khẳng định: Chính phủ Việt Nam cam kết mạnh mẽ trong công cuộc phòng, chống tác hại của thuốc lá. Bên cạnh xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá cũng được thành lập từ đóng góp bắt buộc của các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu thuốc lá. Mô hình quản lý quỹ được đánh giá cao nhờ tính đa ngành, minh bạch và dựa trên bằng chứng.
Quỹ do Bộ Y tế chủ trì và có sự tham gia của nhiều bộ, ngành, hoạt động theo nguyên tắc cấp kinh phí dựa trên kết quả đầu ra. Các quy trình lựa chọn, lập kế hoạch, giám sát và đánh giá đều được thực hiện công khai, khoa học, với các chương trình được xây dựng và triển khai dựa trên dữ liệu tin cậy và bằng chứng thực tiễn.
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tác hại của thuốc lá, trong giai đoạn tới, Bộ Y tế và Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá sẽ cùng các bộ, ngành và đơn vị liên quan tiếp tục rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật và đánh giá việc xây dựng, thực hiện các văn bản liên quan đến hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc lá, kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp để giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá trong cộng đồng. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng trong việc giảm các yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe, giảm tỷ lệ tử vong do sử dụng các sản phẩm thuốc lá gây ra, thực hiện các cam kết của Công ước Khung về kiểm soát thuốc lá mà Việt Nam là thành viên. Trong đó thực hiện cả 2 nhóm giải pháp giảm nhu cầu sử dụng cũng như giảm cung cấp và bổ sung các sản phẩm thuốc lá mới, giảm tiếp cận, giảm tính hấp dẫn của các sản phẩm thuốc lá để giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá một cách hiệu quả. Tăng cường các quy định, giải pháp để bảo đảm quyền của mọi người, đặc biệt là người không hút thuốc được sống, làm việc và học tập trong môi trường không khói thuốc….
Thông cáo của WHO được công bố hôm 12/9 cho thấy gần 560.000 ca nhiễm đã được báo cáo trên 60 quốc gia và khu vực, trong đó có hơn 6.000 người đã tử vong vì căn bệnh này.
Bệnh nhân mắc tả được điều trị tại trung tâm y tế ở Kosti, bang White Nile, Sudan. (Ảnh: THX/TTXVN)
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) mới đây đã công bố số liệu thống kê về bệnh tả toàn cầu năm 2024, trong đó cho thấy sự gia tăng cả về số người mắc bệnh và tử vong do căn bệnh này.
Thông cáo của WHO được công bố hôm 12/9 cũng cho thấy số ca mắc bệnh tả được báo cáo đã tăng 5% và số ca tử vong tăng 50% trong năm 2024 so với năm 2023. Tổng cộng, gần 560.000 ca nhiễm đã được báo cáo trên 60 quốc gia và khu vực, trong đó có hơn 6.000 người đã tử vong vì căn bệnh này.
Năm 2023, bệnh tả chỉ được báo cáo ở 45 quốc gia và khu vực. Hầu hết các trường hợp mắc bệnh ở châu Phi, Trung Đông và châu Á, chiếm tổng cộng 98% số ca nhiễm. Tỷ lệ tử vong ở châu Phi đã tăng từ 1,4% vào năm 2023 lên 1,9% vào năm 2024.
Cũng theo báo cáo của WHO, phạm vi bùng phát dịch tả tiếp tục mở rộng trong năm 2024, với 12 quốc gia báo cáo có hơn 10.000 ca, trong đó 7 quốc gia ghi nhận các đợt bùng phát lớn lần đầu tiên trong năm.
Sự bùng phát trở lại của dịch tả ở Comoros – sau hơn 15 năm không có đợt bùng phát nào được báo cáo, đã nhấn mạnh mối đe dọa dai dẳng của sự lây lan toàn cầu.
Xung đột, Biến đổi Khí hậu, di dân và tình trạng thiếu hụt lâu dài về nước sạch, vệ sinh môi trường và cơ sở hạ tầng vệ sinh đang thúc đẩy sự gia tăng của dịch bệnh này.
Dữ liệu sơ bộ cho thấy cuộc khủng hoảng dịch tả toàn cầu sẽ tiếp tục đến năm 2025, với 31 quốc gia và khu vực báo cáo các đợt bùng phát kể từ đầu năm./.
Bộ Y tế yêu cầu các đơn vị chức năng tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và đẩy mạnh tuyên truyền để bảo đảm an toàn thực phẩm dịp Tết Trung thu 2025.
Bộ Y tế yêu cầu tăng cường bảo đảm an toàn thực phẩm Tết Trung thu năm 2025. (Ảnh minh họa)
Phó Cục trưởng An toàn thực phẩm (Bộ Y tế) Nguyễn Minh Hằng vừa ký công văn gửi Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở An toàn thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Đà Nẵng, đề nghị triển khai nhiều biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm trong dịp Tết Trung thu 2025.
Theo nhận định của Cục An toàn thực phẩm, thời gian tới, đặc biệt là gần Tết Trung thu, nhu cầu tiêu dùng các loại bánh, kẹo sẽ tăng đột biến. Do vậy, để bảo đảm an toàn thực phẩm, phòng ngừa ngộ độc thực phẩm, bảo vệ quyền lợi và sức khỏe người tiêu dùng, Cục An toàn thực phẩm đề nghị các địa phương chỉ đạo các đơn vị chức năng tập trung triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm.
Cụ thể, các địa phương cần phối hợp với Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Môi trường tăng cường triển khai hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm của các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, tập trung ưu tiên các cơ sở sản xuất, kinh doanh bánh trung thu, bánh kẹo, nước giải khát, thực phẩm truyền thống sản xuất tại các làng nghề, cơ sở nhỏ lẻ; cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố…
Cùng với đó, kịp thời truy xuất, thu hồi các sản phẩm không bảo đảm an toàn thực phẩm, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm và công khai tên cơ sở, địa chỉ, loại sản phẩm vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng, nếu có dấu hiệu hình sự đề nghị chuyển cơ quan công an để xử lý theo quy định của pháp luật.
Chủ động phối hợp các cơ quan truyền thông tăng cường công tác thông tin, giáo dục và truyền thông về an toàn thực phẩm trong dịp Tết Trung thu. Nội dung tuyên truyền hướng tới hai nhóm đối tượng:
Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm: Phải thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm quy định điều kiện cơ sở, trang thiết bị dụng cụ, yêu cầu về kiến thức, thực hành của người trực tiếp tham gia sản xuất, quy định về nguồn gốc nguyên liệu thực phẩm, quy định về đăng ký bản công bố, tự công bố sản phẩm, sử dụng phẩm màu, hương liệu, phụ gia, bao bì thực phẩm, ghi nhãn sản phẩm.
Đối với người tiêu dùng: Cần lựa chọn, chế biến, bảo quản và sử dụng thực phẩm an toàn. Chỉ mua, sử dụng thực phẩm, phụ gia thực phẩm có nhãn mác đầy đủ, nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng; không sử dụng phụ gia thực phẩm ngoài danh mục, không đúng đối tượng, liều lượng theo quy định.
Song song với đó, Cục An toàn thực phẩm cũng yêu cầu Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở An toàn thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Đà Nẵng chỉ đạo các đơn vị y tế trên địa bàn chuẩn bị phương án, lực lượng thường trực, phương tiện, vật tư, hóa chất để sẵn sàng cấp cứu và điều trị cho bệnh nhân khi xảy ra ngộ độc thực phẩm; điều tra vụ ngộ độc thực phẩm, xác định nguyên nhân gây ngộ độc, thực hiện các biện pháp phòng ngừa nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm.
Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 13/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tăng cường trách nhiệm quản lý Nhà nước về an toàn thực phẩm trong tình hình mới; Chỉ thị số 38/CT-TTg ngày 11/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường phòng ngừa ngộ độc thực phẩm; Chỉ thị số 17/CT-TW ngày 21/10/2022 của Ban Bí thư về tăng cường bảo đảm an ninh an toàn thực phẩm trong tình hình mới; Công văn số 2633/BYT-ATTP ngày 30/4/2025 của Bộ Y tế về tăng cường công tác bảo đảm an toàn thực phẩm, phòng chống thực phẩm giả, ngộ độc thực phẩm.
Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) cho biết, chưa có thuốc nào có tên Lexomil ® 6mg được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam.
Ngày 15/9/2025, Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) có văn bản gửi Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh và Công ty TNHH DKSH Pharma Việt Nam về việc xác minh, xử lý thông tin liên quan đến thuốc Lexomil® 6mg có dấu hiệu giả mạo.
Cục cho biết, theo công văn số 01-Aug-2025 của Công ty TNHH DKSH Pharma Việt Nam kèm báo cáo của Cheplapharm Arzneimottel GmbH (chủ sở hữu sản phẩm Lexomil®), hiện DKSH Pharma Việt Nam chỉ nhập khẩu một số thuốc của Cheplapharm vào thị trường Việt Nam.
Chưa có thuốc nào có tên Lexomil ® 6mg được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam. (Ảnh minh hoạ)
Tuy nhiên, theo báo cáo của Cheplapharm:
Thuốc Lexomil® 6mg (số lô: F3193F01, hạn dùng: 12/2027, quy cách: hộp 30 viên) được sản xuất tại Cenexi, Pháp ngày 07/12/2022,
Được Cheplapharm xuất bán và phân phối tại thị trường Pháp,
Không được DKSH nhập khẩu và không phân phối tại Việt Nam.
Kết quả đối chiếu giữa mẫu thuốc thật và sản phẩm do Công an TP. Hồ Chí Minh thu giữ cho thấy: lô Lexomil® 6mg nêu trên là thuốc giả. Đồng thời, tra cứu trên cổng thông tin của Cục Quản lý Dược cho thấy, chưa có thuốc nào tên Lexomil® 6mg được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam.
Để đảm bảo an toàn cho người dân, Cục Quản lý Dược yêu cầu:
Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh phối hợp với các đơn vị liên quan:
Không buôn bán, sử dụng Lexomil® 6mg nghi ngờ giả.
Thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ về phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và thuốc giả (Chỉ thị 13/CT-TTg, Công điện 41/CĐ-TTg, 55/CĐ-TTg, Kế hoạch 614/KH-BYT).
Tăng cường truyền thông:
Hướng dẫn người dân chỉ mua thuốc tại cơ sở hợp pháp;
Không mua/bán thuốc không rõ nguồn gốc;
Báo ngay cho cơ quan y tế hoặc công an nếu phát hiện thuốc giả.
Đối với Công ty DKSH Pharma Việt Nam:
Cung cấp thông tin chính xác,
Phối hợp với Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh và cơ quan chức năng để truy tìm nguồn gốc lô thuốc giả.
Lexomil® 6mg chứa hoạt chất Bromazepam là một thuốc nhóm benzodiazepin có tác dụng an thần, giải lo âu, gây ngủ và giãn cơ. Thuốc được sử dụng để điều trị các triệu chứng lo âu, căng thẳng thần kinh, mất ngủ và có thể có tác dụng chống co giật ở liều cao.
Phó Thủ tướng Lê Thành Long vừa ký Chỉ thị số 25/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương liên quan đẩy mạnh phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đề xuất xây dựng Luật về y học cổ truyền
Chỉ thị của Thủ tướng nêu rõ, y học cổ truyền Việt Nam là tài sản văn hoá quý báu của dân tộc, được hình thành và phát triển gắn với lịch sử đất nước. Xác định tầm quan trọng của nền y học cổ truyền, Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm bảo tồn, kế thừa và phát triển, coi đây vừa là trách nhiệm vừa là sứ mệnh để giữ gìn giá trị văn hoá, truyền thống lịch sử, đồng thời đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân trong tình hình mới.
Để phát huy hơn nữa vị thế, vai trò của nền y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe nhân dân gắn với phát triển KT-XH, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ, ngành liên quan rà soát, nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù của y học cổ truyền nhằm thúc đẩy phát triển đúng với tiềm năng vốn có; tăng cường kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại; nghiên cứu mở rộng phạm vi sử dụng, thanh toán bảo hiểm y tế đối với các loại thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu, dịch vụ khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền; đề xuất xây dựng Luật về y học cổ truyền.
Đẩy mạnh phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đồng thời, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nội vụ hoàn thiện tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp trong lĩnh vực y học cổ truyền.
Bộ Y tế chủ trì, nghiên cứu, đề xuất đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng quy mô các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế và quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương; chú trọng lựa chọn thứ tự ưu tiên đầu tư và bố trí nguồn vốn đầu tư công cho một số cơ sở có yêu cầu cấp bách.
Tiếp tục xây dựng hướng dẫn chẩn đoán, điều trị và các quy trình kỹ thuật khám, chữa bệnh kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại, tập trung vào một số thế mạnh như châm cứu và các phương pháp điều trị không dùng thuốc khác.
Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng dược liệu, bài thuốc…
Thủ tướng giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ KH&CN, Bộ Tài chính nghiên cứu, đề xuất các nhiệm vụ khoa học, công nghệ sử dụng NSNN để tập trung nghiên cứu một số bài thuốc, phát triển các sản phẩm từ dược liệu, thuốc cổ truyền.
Bộ Y tế chỉ đạo, hướng dẫn toàn diện công tác phát triển nguồn dược liệu trong nước theo hướng công nghiệp; ban hành bản đồ quy hoạch vùng trồng dược liệu cấp quốc gia và địa phương; bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm, đặc hữu; chuẩn hóa quy trình nuôi trồng, thu hái, bảo quản, chế biến dược liệu đảm bảo chất lượng và an toàn, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế (GACP-WHO, ORGANIC…), gắn với hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng công nghệ số nhằm kiểm soát chất lượng, minh bạch hóa chuỗi cung ứng và phục vụ mục tiêu xuất khẩu.
Người dân chế biến các sản phẩm từ dược liệu trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Cùng với đó, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực y học cổ truyền, nhất là nhân lực chuyên sâu, chất lượng cao, tạo điều kiện cho đội ngũ y, bác sĩ y học cổ truyền tiếp cận kỹ thuật hiện đại để nâng cao hiệu quả kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong lĩnh vực y học cổ truyền; tập trung số hóa các tài liệu, tư liệu quý; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng dược liệu, các vị thuốc, cây thuốc, bài thuốc, thầy thuốc tiêu biểu và công trình khoa học để bảo tồn, tra cứu thuận lợi. Các địa phương, đơn vị cần tăng cường chia sẻ thông tin về y học cổ truyền.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành liên quan tổ chức xây dựng, phê duyệt, trình cấp có thẩm quyền các đề án, chương trình hợp tác với các nước có nền y học cổ truyền phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ; chủ động triển khai các điều ước, thỏa thuận quốc tế đã ký kết.
Phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 1 bệnh viện y học cổ truyền
Thủ tướng cũng giao nhiệm vụ cho Bộ Tài chính, Bộ KH&CN, Bộ NN&MT, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương phối hợp để đẩy mạnh phát triển y học cổ truyền trong giai đoạn mới.
Đối với Bộ VHTT&DL, giao chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế tổ chức các hoạt động thông tin, quảng bá y học cổ truyền gắn với văn hóa, bản sắc dân tộc; phát triển du lịch y tế, du lịch chăm sóc sức khỏe có sử dụng y học cổ truyền; quản lý chặt chẽ, hiệu quả hoạt động quảng cáo trong lĩnh vực này.
Bộ Dân tộc và Tôn giáo thực hiện hiệu quả dự án phát triển dược liệu trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; phối hợp với Bộ Y tế điều tra, bảo tồn, đánh giá và chuyển giao tri thức y học cổ truyền trong cộng đồng dân tộc thiểu số.
TS. Trần Minh Ngọc, Phó Cục trưởng Cục Quản lý y dược cổ truyền Việt Nam (trái), kiểm tra hoạt động của một cơ sở hành nghề y dược cổ truyền trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Y tế triển khai các điều ước, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực y học cổ truyền; hỗ trợ Bộ Y tế xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án hợp tác quốc tế; quảng bá, giới thiệu hình ảnh, thương hiệu và giá trị văn hóa của y học cổ truyền Việt Nam ra thế giới.
Hội Đông y Việt Nam đẩy mạnh sưu tầm, kế thừa, bảo tồn, phát triển các bài thuốc hay, cây thuốc quý, phương pháp chữa bệnh hiệu quả; tuyên truyền, phổ biến đến hội viên và nhân dân để sử dụng an toàn, hiệu quả.
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm ưu tiên bố trí ngân sách cho phát triển y học cổ truyền; ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi để khuyến khích, thu hút đầu tư xã hội; đầu tư, nâng cấp bệnh viện y học cổ truyền theo hướng hiện đại hóa, phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 1 bệnh viện y học cổ truyền với cơ sở hạ tầng, thiết bị hiện đại để thực hiện hiệu quả việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong khám, chữa bệnh.
Chính phủ vừa có Nghị quyết 282/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09 tháng 9 năm 2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (Chương trình).
Tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
Chương trình đặt mục tiêu tổ chức thể chế hóa và thực hiện đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09 tháng 9 năm 2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 72-NQ/TW).
Đồng thời xác định nhiệm vụ cụ thể để các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 72-NQ/TW để đạt mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe, sống lâu, sống khỏe, sống lành mạnh, nâng cao thể chất, ý thức bảo vệ sức khỏe và chủ động phòng ngừa bệnh tật trong toàn xã hội, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
Nhằm đạt được mục tiêu Nghị quyết số 72-NQ/TW đề ra, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai các nhiệm vụ:
Đổi mới mạnh mẽ tư duy và hành động trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đổi mới mạnh mẽ tư duy và hành động trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Trong đó, truyền thông, giáo dục sức khoẻ, tăng cường nhận thức về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, tạo ý thức tự giác, chủ động trong phòng bệnh của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan đơn vị xây dựng, tổ chức triển khai truyền thông, giáo dục sức khoẻ, tăng cường nhận thức về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, đa dạng hóa các hình thức, phương thức tuyên truyền, cụ thể hóa nội dung tuyên truyền cho từng nhóm đối tượng.
Trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của các bộ, ngành, địa phương, đơn vị phải lồng ghép và ưu tiên bổ sung các chỉ tiêu về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành Quyết định lấy ngày 07/4 hằng năm là “Ngày sức khoẻ toàn dân”. Thời gian hoàn thành Quý I/2026.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Đề án nâng cao hiệu quả sử dụng các thiết chế văn hoá, thể thao, không gian công cộng phục vụ rèn luyện sức khoẻ cho nhân dân; đẩy mạnh phong trào toàn dân chủ động chăm sóc sức khoẻ, xây dựng văn hoá sức khoẻ trong nhân dân. Thời gian hoàn thành Quý I/2026.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, các bộ, ngành, địa phương xây dựng Đề án/Chương trình đưa nội dung giáo dục sức khoẻ vào chương trình giáo dục phù hợp với các cấp học, bậc học; triển khai các hoạt động chăm sóc sức khỏe, giáo dục thể chất, dinh dưỡng học đường tại cơ sở giáo dục. Thời gian hoàn thành Quý III/2026, triển khai thường xuyên.
Hoàn thiện thể chế, tập trung nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là y tế dự phòng, y tế cơ sở, phát huy thế mạnh của y học cổ truyền
Chính phủ giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, ngành, địa phương xây dựng Nghị quyết của Quốc hội để thể chế một số chính sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Thời gian hoàn thành Quý IV/2025.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, ngành liên quan tập trung hoàn thiện, ban hành các Luật: Dân số, Phòng bệnh, An toàn thực phẩm, Thiết bị y tế, Y học cổ truyền, Phòng chống tác hại thuốc lá… Thời gian hoàn thành từ 2025-2030.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình mục tiêu Quốc gia về chăm sóc sức khoẻ, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Thời gian hoàn thành trong năm 2026.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ, ngành xây dựng Nghị định của Chính phủ về tiêm chủng. Thời gian hoàn thành trong năm 2026.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, các bộ, ngành liên quan, địa phương tiếp tục thực hiện sắp xếp, chuyển một số bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế về cấp tỉnh quản lý, Bộ Y tế quản lý một số bệnh viện cấp chuyên sâu kỹ thuật cao, đầu ngành để thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo chuyên môn, đào tạo nhân lực chất lượng, nghiên cứu khoa học, chuyển giao kỹ thuật, điều phối phòng, chống dịch bệnh, các sự kiện khẩn cấp về y tế công cộng, thiên tai, thảm hoạ, an ninh y tế. Thời gian hoàn thành từ 2025-2030.
Từng bước thực hiện chính sách miễn viện phí, trước hết là đối với đối tượng chính sách xã hội, người yếu thế, người có thu nhập thấp
Ưu tiên bố trí và bảo đảm mức tăng chi ngân sách nhà nước hằng năm cho lĩnh vực y tế, bảo đảm ngân sách nhà nước chi thường xuyên và chi đầu tư cho y tế cơ sở, y tế dự phòng. Bố trí ngân sách nhà nước để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị y tế cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân, nhất là tại các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, biên giới, biển đảo, lĩnh vực tâm thần, pháp y, pháp y tâm thần, hồi sức cấp cứu, giải phẫu bệnh và một số đối tượng đặc thù.
Từ năm 2026, tổ chức phối hợp giữa các hoạt động khám sức khỏe định kỳ, khám sàng lọc miễn phí, kiểm tra sức khoẻ của học sinh, sinh viên, khám bệnh nghề nghiệp, khám sức khoẻ cho người lao động theo quy định và khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế để khám bệnh miễn phí và hoàn thành việc tạo lập sổ sức khỏe điện tử cho toàn bộ người dân.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp Bộ Y tế, các bộ, ngành, địa phương xây dựng Đề án nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, sử dụng Quỹ Bảo hiểm y tế, cải cách thủ tục hành chính, sử dụng tiết kiệm chi phí quản lý, tăng chi cho khám bệnh, chữa bệnh, phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm y tế. Thời gian hoàn thành trong năm 2027.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương xây dựng Đề án từng bước thực hiện chính sách miễn viện phí, trước hết là đối với đối tượng chính sách xã hội, người yếu thế, người có thu nhập thấp và một số đối tượng cần ưu tiên khác trong phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế theo lộ trình. Thời gian hoàn thành trong năm 2028.
Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương xây dựng Nghị định của Chính phủ thí điểm bảo hiểm y tế chi trả cho một số dịch vụ phòng bệnh, chẩn đoán, điều trị sớm một số bệnh và đối tượng ưu tiên theo lộ trình. Thời gian hoàn thành trong năm 2027.
Khuyến khích phát triển bảo hiểm sức khỏe thương mại. Nghiên cứu thí điểm, đa dạng hoá các gói bảo hiểm y tế, bảo hiểm y tế bổ sung theo nhu cầu của người dân, liên kết giữa bảo hiểm y tế với bảo hiểm sức khoẻ thương mại. Nghiên cứu, triển khai đổi mới công tác quản lý đối với quỹ bảo hiểm y tế.