Danh mục: Tin Tức Y Dược
Tin Tức Y Dược
Nắm bắt tầm quan trọng của công tác nghi lễ, lễ tân, khánh tiết góp phần không nhỏ trong công tác ngoại giao tại cơ quan, đơn vị, ngày 14/11/2025, tại thành phố Cần Thơ, Văn phòng Bộ Y tế tổ chức khóa tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ về nghi lễ, lễ tân, khánh tiết. TS. Nguyễn Mạnh Cường, Giảng viên chính Học viện Hành chính và Quản trị công trực tiếp truyền đạt.
Dự chương trình tập huấn có lãnh đạo Văn phòng Bộ Y tế; lãnh đạo, chuyên viên các Cục, Vụ, đơn vị thuộc Bộ Y tế; đại diện 17 Sở Y tế khu vực phía Nam, cùng 120 học viên.
Quang cảnh chương trình tập huấn
TS Nguyễn Đức Thành, Phó Chánh Văn phòng Bộ Y tế phát biểu
Chủ trì khóa tập huấn, TS. Nguyễn Đức Thành, Phó Chánh Văn phòng Bộ Y tế nhấn mạnh: Lễ tân là công việc không thể thiếu trong công tác lãnh đạo, điều hành hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Đây chính là cơ sở quan trọng để tạo nên bầu không khí thuận lợi trong quan hệ công tác thông qua hoạt động đối ngoại. Lãnh đạo Văn phòng Bộ Y tế chú trọng tới đội ngũ cán bộ vừa tinh thông nghiệp vụ, vừa đảm nhiệm tốt công tác ngoại giao, nghi lễ, khánh tiết, lễ tân. Do đó, sau thành công của khóa tập huấn được tổ chức tại tỉnh Lào Cai, Văn phòng Bộ Y tế triển khai chương trình cho 120 học viên đến từ các tỉnh phía Nam ở các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ Y tế tiếp thu kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ nghi lễ, lễ tân, khánh tiết. Đồng thời mong rằng những kiến thức, kỹ năng được giảng viên truyền đạt trong khóa học sẽ trở thành công cụ và hành trang hữu ích giúp các học viên, những cán bộ, nhân viên phụ trách công tác lễ tân, văn phòng ngày một chuyên nghiệp, bài bản hơn, tham mưu tổ chức, triển khai hiệu quả các hoạt động lễ tân đối nội, đối ngoại trong ngành Y tế.
Tại khóa tập huấn, TS. Nguyễn Mạnh Cường, Giảng viên chính của Học viện Hành chính và Quản trị công truyền đạt tới các học viên về phương pháp học lý thuyết kết hợp trao đổi, thảo luận, thực hành các kỹ năng trên lớp về các nội dung liên quan đến giao tiếp đối ngoại.
TS. Nguyễn Mạnh Cường, Giảng viên chính của Học viện Hành chính và Quản trị công truyền đạt thông tin
Trong đó, tập trung vào các nội dung: Kỹ năng lập kế hoạch trong Tổ chức sự kiện như phương pháp lập biểu đồ Gantt, phương pháp lập bản đồ tư duy Mind map, xây dựng Kế hoạch; kỹ năng xác định thứ tự ưu tiên trong công việc và xây dựng Bản phân công nhiệm vụ; tập checklist lễ tân, hậu cần, báo chí cho một hội nghị. Cùng đó, các học viên được nghiên cứu, tìm hiểu chi tiết về các kỹ năng trong thực hiện Nghị thức Nhà nước- Lễ Tân – Kỹ năng giao tiếp, như: Nghi thức nhà nước và lễ tân trong tổ chức lễ mít tinh, lễ kỷ niệm, trao tặng và đón nhận danh hiệu vinh dự của nhà nước; Nghi thức nhà nước và lễ tân trong đón tiếp lãnh đạo cấp cao; Nghi thức nhà nước và lễ tân trong đón tiếp đón tiếp khách nước ngoài; Nghi thức và lễ tân trong tổ chức hội nghị, hội thảo, họp thường kỳ.
Học viên trao đổi thảo luận
Chương trình tập huấn diễn ra trong không khí sôi nổi, nội dung bài giảng được giảng viên và học viên minh họa bằng những tình huống cụ thể đầy sinh động và gần gũi, giúp học viên dễ hình dung và có thể vận dụng ngay khi quay trở lại công việc hàng ngày.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm
Qua đó, rèn luyện tác phong chuẩn mực, phong thái tự tin, kỹ năng giao tiếp chuyên nghiệp và khả năng xử lý linh hoạt các tình huống trong quá trình đón tiếp khách, tổ chức hội nghị, lễ ký kết, đón đoàn ngoại giao và các sự kiện chiêu đãi./.
Củng cố y tế cơ sở và phát triển y học gia đình là định hướng chiến lược, giúp hệ thống y tế chủ động phòng bệnh từ sớm, tăng cường hiệu quả chăm sóc, đồng thời tạo sự công bằng và bền vững trong tiếp cận dịch vụ y tế cho mọi người dân.
Ngày 13/11, Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế phối hợp với Phái đoàn Wallonie-Bruxelles (Vương quốc Bỉ) tổ chức Hội nghị quốc tế “Hợp tác và phát triển bền vững Y học gia đình và Chăm sóc sức khỏe ban đầu thông qua đổi mới đào tạo và thực hành”.
Quang cảnh hội nghị.
Phát biểu khai mạc, GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy, Hiệu trưởng Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế cho hay, Nghị quyết 72 của Bộ Chính trị khẳng định củng cố y tế cơ sở và phát triển y học gia đình là đường hướng then chốt để thực hiện mục tiêu quan trọng của ngành y tế là bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Đây không chỉ là chủ trương lớn về chính trị mà còn là nền tảng quan trọng để củng cố và phát triển hệ thống y tế Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Vũ Quốc Huy nhấn mạnh, đây là dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư duy phát triển y tế, với chăm sóc sức khỏe ban đầu là trụ cột quan trọng, giúp hệ thống y tế công bằng, bền vững và thích ứng với những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Các hoạt động hợp tác quốc tế của ngành y tế không chỉ dừng lại ở chuyển giao kỹ thuật, tri thức mà còn giúp huy động nguồn lực tổng hợp, củng cố năng lực hệ thống và phát triển các sáng kiến trong đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học và thực hành y học, đặc biệt là y học gia đình.
Hiệu trưởng Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế cho hay, y học gia đình là chuyên ngành lâm sàng đồng thời là phương thức tổ chức hệ thống y tế hiện đại, nơi người dân được chăm sóc liên tục, toàn diện, gắn kết giữa dự phòng và điều trị, giữa cá nhân và cộng đồng, theo các nguyên lý của lĩnh vực này. Mô hình được chứng minh hiệu quả ở nhiều quốc gia và tại Việt Nam.
TS. Dương Huy Lương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) phát biểu tại hội nghị.
Tại hội nghị, TS. Dương Huy Lương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, y học gia đình ở Việt Nam có lịch sử phát triển gần 25 năm hình thành và phát triển. Trước năm 2000, chuyên ngành này chưa tồn tại, đến năm 2002, bộ môn y học gia đình mới được thành lập. Đến nay, cả nước có hơn 10 trường đào tạo chuyên ngành này.
TS. Dương Huy Lương nhấn mạnh, với định hướng “phòng bệnh từ sớm, từ xa”, việc củng cố mạng lưới y học gia đình sẽ giúp nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế, mở rộng chăm sóc sức khỏe từ dự phòng đến điều trị, đồng thời bảo đảm công bằng và phát triển bền vững ngành y tế.
“Thực hiện chủ trương này cần dựa vào chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt là y học gia đình, nhằm giúp các bệnh viện và phòng khám không chỉ chờ bệnh nhân đến mà chủ động tham gia phòng bệnh sớm.
Thực tế tại Huế, sau trận lũ lụt vừa qua, các trạm y tế bị ngập sâu nhưng chỉ sau hai tuần, thành phố trở lại bình thường, cho thấy vai trò quan trọng của đội ngũ y tế và y học gia đình trong việc phục hồi và chăm sóc sức khỏe cộng đồng”, TS. Dương Huy Lương chia sẻ.
Củng cố y tế cơ sở và phát triển y học gia đình là đường hướng then chốt để thực hiện mục tiêu quan trọng của ngành y tế là bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Theo TS. Dương Huy Lương, hiện nay Cục Quản lý Khám, chữa bệnh đang tiếp tục hoàn thiện chính sách và hướng dẫn triển khai hoạt động y học gia đình, nhằm tạo cơ sở pháp lý, mở rộng phạm vi hoạt động, thống nhất đào tạo và nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân.
(Nguồn: suckhoedoisong.vn)
Thời gian gần đây, nhiều người dân ở Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu tìm đến các trạm y tế để khám, chữa bệnh; nhờ những nơi này có đủ các loại thuốc thiết yếu, bác sĩ lại thân thiện và nhiệt tình.
Bác sĩ Võ Bạch Bảo Trâm thăm khám và tận tình tư vấn người dân cách thức chăm sóc sức khỏe.
Mới đây, bà L.T.X (sinh năm 1954, trú phường Thủ Đức) đã đến điểm y tế số 2 của Trạm Y tế phường Thủ Đức để khám sức khỏe định kỳ dành cho người cao tuổi. Đây là chương trình được ngành y tế Thành phố Hồ Chí Minh triển khai thực hiện trong thời gian qua.
Ngay khi bước vào cổng điểm y tế, bà X đã được các nhân viên y tế tiếp đón vui vẻ, nồng hậu. Sau khi thực hiện các thủ tục tiếp nhận, đo huyết áp, cân nặng, chiều cao, bà X tiếp tục được nhân viên y tế lấy mẫu máu để xét nghiệm vì đã vài năm rồi bà chưa khám sức khỏe tổng quát. Bà X được một dược sĩ trong điểm y tế tặng ngay bữa ăn sáng, gồm món mặn và chuối tráng miệng. Những bữa ăn sáng như này được các nhà hảo tâm nấu và hỗ trợ để điểm y tế tặng người dân đến khám bệnh từ hơn một năm nay, để người dân có thể ổn định thể trạng và tiếp tục quy trình khám bệnh (do người đi khám bệnh thường nhịn ăn sáng).
Tại phòng siêu âm, bác sĩ Đào Thị Mỹ Liên và trợ lý điều dưỡng làm việc gần như không được nghỉ tay vì người dân đến ngày càng đông. Với hàng chục năm kinh nghiệm (nhờ là bác sĩ đã về hưu, được mời trở lại để hỗ trợ trạm y tế trong mùa dịch Covid-19 vừa qua), bác sĩ Liên vừa thực hiện thủ thuật siêu âm vừa trò chuyện, thăm hỏi ân cần, khiến không khí trong phòng trở nên ấm áp, gần gũi.
Ở khâu cuối cùng, trước khi ra về, tại phòng khám, bác sĩ Võ Bạch Bảo Trâm thăm khám và tận tình tư vấn, hướng dẫn bà con tuân thủ chỉ định, cách thức giữ gìn sức khỏe trong sinh hoạt thường nhật. Bác sĩ Trâm là người thực hành tại trạm y tế Thủ Đức theo chương trình thực hành tại bệnh viện gắn với trạm y tế. Hơn một năm trước, sau khi nhận chứng chỉ hành nghề, bác sĩ Trâm đã tình nguyện ở lại điểm y tế này làm việc.
Người dân đã vui vẻ, không còn lo lắng khi khám bệnh ở các trạm y tế.
Trạm y tế phường Thủ Đức (gồm 3 điểm y tế) có tổng cộng 3 bác sĩ. Ngoài bác sĩ Phạm Huy Hoàng là Trưởng Trạm còn có bác sĩ Võ Bạch Bảo Trâm và bác sĩ Trần Duy Hưng. Giống như bác sĩ Trâm, bác sĩ Hưng cũng tham gia chương trình thực hành tại bệnh viện gắn với trạm y tế. Sau khi nhận chứng chỉ hành nghề, cuối tháng 8 vừa qua, bác sĩ Hưng đã đăng ký với Sở Y tế Thành phố, tình nguyện công tác tại trạm y tế và được phân công về Trạm Y tế phường Thủ Đức.
Bác sĩ Hoàng cho biết: Từ khi Trạm Y tế được ký hợp đồng khám, chữa bệnh có bảo hiểm y tế (cuối năm 2024) đến nay, và có các bác sĩ trẻ làm việc, người dân tới khám bệnh ngày càng đông. Không những được gần nhà, nhiều người dân đã tin tưởng Trạm Y tế hơn nhờ Trạm có đủ các loại thuốc thiết yếu, bác sĩ lại ứng xử thân thiện, tình cảm.
Bác sĩ chuyên khoa II Trần Thanh Sang, Giám đốc Trung tâm Y tế khu vực Thủ Đức cho biết: Đơn vị đang quản lý 12 trạm y tế với tổng cộng 32 điểm y tế. Trong đó, hiện có 9 trạm y tế với 17 điểm y tế đang khám, chữa bệnh có bảo hiểm y tế. Trong thời gian tới, Trung tâm Y tế khu vực Thủ Đức sẽ nỗ lực để triển khai khám, chữa bệnh có bảo hiểm y tế tại tất cả các điểm y tế, để người dân trên địa bàn được chăm lo sức khỏe, đặc biệt là những người mắc bệnh mạn tính không lây.
Trước mắt, Trung tâm sẽ ưu tiên triển khai khám, chữa bệnh có bảo hiểm y tế tại 3 trạm y tế Tăng Nhơn Phú, Long Phước, An Khánh, bảo đảm trạm nào cũng có ít nhất 1 điểm y tế khám, chữa bệnh có bảo hiểm y tế. Bác sĩ Sang chia sẻ thêm: Mặc dù 32 điểm y tế đều có bác sĩ, nhưng nếu tính theo số bác sĩ trên số dân thì vẫn còn thiếu. Do đó, các bác sĩ mới ra trường tình nguyện về trạm y tế làm việc có ý nghĩa lớn và rất đáng trân trọng.
Mới đây, tại Ngày hội việc làm ngành Y tế Thành phố Hồ Chí Minh năm 2025, Trung tâm đã tuyển dụng được 6 bác sĩ trẻ; và các bác sĩ trẻ đã mang đến “sức sống mới” cho các điểm y tế.
(Nguồn: nhandan.vn)
Trong hai ngày 13-14/11/2025, tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị công tác truyền thông y tế năm 2025, định hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026, kết hợp Tập huấn chuyên sâu về chuyển đổi số trong công tác truyền thông y tế. Sự kiện nhằm đánh giá toàn diện kết quả triển khai công tác truyền thông thời gian qua, đồng thời xác định rõ phương hướng đổi mới trong giai đoạn tới.
Ông Đoàn Hữu Thiển – Chánh Văn phòng Bộ Y tế – phát biểu khai mạc hội nghị.
Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo Văn phòng Bộ Y tế; đại diện Ban Tuyên giáo và Ban Dân vận Trung ương; lãnh đạo Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh; các Vụ, Cục, đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ; Sở Y tế, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật các tỉnh/thành phố cùng hơn 300 cán bộ phụ trách truyền thông y tế trên toàn quốc.
Truyền thông Y tế 2025: Toàn diện, sâu rộng và phản ứng nhanh
Báo cáo tổng kết tại hội nghị cho thấy công tác truyền thông y tế năm 2025 đạt kết quả toàn diện, sâu rộng và phản ứng nhanh, bám sát chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Y tế. Nhiều hoạt động lớn được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, nổi bật như chương trình kỷ niệm 70 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam được tổ chức với quy mô rộng, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong toàn hệ thống y tế; các tuyến bài trọng tâm về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, thực phẩm giả, thuốc giả, chuyển đổi số y tế, an toàn thực phẩm, phòng chống dịch… được thực hiện kịp thời, chính xác, góp phần định hướng dư luận và củng cố niềm tin của người dân.
Ông Nguyễn Toàn Thắng, Phó Chánh Văn phòng Bộ Y tế, trình bày tổng kết công tác truyền thông y tế năm 2025 và triển khai Kế hoạch thông tin, truyền thông y tế năm 2026.
Ngành Y tế cũng tăng cường điều phối giữa Văn phòng Bộ và các đơn vị, gắn kết hệ thống báo chí ngành, duy trì hiệu quả mô hình phối hợp liên ngành, đẩy mạnh truyền thông số và truyền thông nguy cơ.
Phát biểu tại hội nghị, ông Đoàn Hữu Thiển – Chánh Văn phòng Bộ Y tế – nhấn mạnh truyền thông y tế là cầu nối quan trọng giữa cơ quan quản lý và người dân, góp phần lan tỏa chủ trương, chính sách và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về y tế. Do đó, Bộ Y tế đề nghị các đơn vị cung cấp thông tin kịp thời, minh bạch; tăng cường kết nối mạng lưới truyền thông y tế các cấp; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức truyền thông theo hướng đa phương tiện, phát huy vai trò của chuyển đổi số; đồng thời tiếp tục củng cố cơ chế phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và cơ quan báo chí.
Ông Vũ Mạnh Cường, Giám đốc Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe trung ương trình bày báo cáo: “Truyền thông may đo” và marketing du kích trong truyền thông y tế” tại hội nghị.
Tăng tốc chuyển đổi số, đẩy mạnh truyền thông chính sách
Bước sang năm 2026, Bộ Y tế xác định đây là năm bản lề triển khai các văn bản định hướng quan trọng, đặc biệt là Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/09/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết này (Nghị quyết số 282/NQ-CP), cùng với Chỉ thị số 07/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác truyền thông chính sách.
Theo đó, ngành Y tế định hướng tập trung đẩy mạnh truyền thông chính sách y tế; nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho người dân; tăng cường truyền thông cải cách hành chính, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo; chủ động truyền thông phòng chống dịch, an toàn thực phẩm, thuốc giả; tổ chức truyền thông các ngày lễ và sự kiện y tế quan trọng. Mục tiêu là hiện đại hóa phương thức truyền thông dựa trên dữ liệu, công nghệ và trí tuệ nhân tạo. Việc vận hành hiệu quả mạng lưới truyền thông y tế đa tầng từ Trung ương đến địa phương tiếp tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, bên cạnh công tác đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ truyền thông y tế.
Chuyên gia báo cáo tại sự kiện.
Tập huấn chuyên sâu về kỹ năng số và truyền thông nguy cơ
Tại hội nghị và chương trình tập huấn, các chuyên gia, diễn giả trình bày nhiều nội dung chuyên sâu, phản ánh xu hướng truyền thông y tế trong bối cảnh chuyển đổi số. Các bài tham luận tập trung vào ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý và sản xuất thông tin; xây dựng mạng lưới chuyên gia y tế phục vụ truyền thông giáo dục sức khỏe; triển khai truyền thông theo từng nhóm đối tượng; tăng cường truyền thông nguy cơ; đổi mới phương thức truyền thông tại tuyến cơ sở trong bối cảnh sắp xếp tổ chức chính quyền hai cấp; đồng thời nâng cao kỹ năng xử lý, khai thác và xác minh thông tin y tế trong thời đại số.
Đặc biệt, nhằm hiện thực hóa yêu cầu tăng tốc chuyển đổi số toàn diện trong công tác truyền thông, Tập huấn về chuyển đổi số trong công tác truyền thông y tế năm 2025 được Bộ Y tế tổ chức nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng số, thúc đẩy đổi mới toàn diện hoạt động truyền thông theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp và lấy người dân làm trung tâm. Bộ Y tế nhận định chuyển đổi số là xu thế tất yếu, giúp thông tin y tế nhanh hơn, chính xác hơn, song vẫn còn thách thức về năng lực ứng dụng công nghệ và kết nối dữ liệu. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải tăng tốc chuyển đổi số toàn diện trong truyền thông, lấy công nghệ làm nền tảng.
Chuyên gia báo cáo tại Tập huấn về chuyển đổi số trong công tác truyền thông y tế năm 2025.
Để cụ thể hóa, ngày 19/8, Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch số 1138/KH-BYT triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương; và Nghị quyết số 71/NQ-CP của Chính phủ, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ, tập trung vào tuyên truyền chính sách, lan tỏa các mô hình chuyển đổi số hiệu quả, phát triển hệ sinh thái truyền thông số và huy động sự vào cuộc của toàn xã hội trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Chuỗi sự kiện khép lại với sự thống nhất cao trong toàn ngành về định hướng đổi mới công tác truyền thông y tế năm 2026. Những nội dung được thảo luận và chia sẻ tại hội nghị là nền tảng quan trọng để hệ thống truyền thông y tế phát triển chuyên nghiệp hơn, hiện đại hơn và bám sát yêu cầu thực tiễn, tiếp tục giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Hiện nay, việc đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền trong nước đã có khá đầy đủ văn bản pháp quy hướng dẫn thực thi. Tuy nhiên, để phát triển bền vững và khai thác thị trường quốc tế, ngành dược cổ truyền cần hướng tới xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.
Thuốc cổ truyền là kết tinh trí tuệ và kinh nghiệm hàng nghìn năm của dân tộc, góp phần quan trọng trong công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
1. Một số văn bản pháp quy liên quan đến công tác đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền
Theo thông tin từ Cục Quản lý Y Dược cổ truyền, Bộ Y tế một số văn bản pháp quy liên quan đến công tác đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền như:
1.1 Luật Dược sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược số 105/2016/QH13 đã được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2024, trong đó quy định nhiều chính sách liên quan đến đăng ký thuốc, nguyên liệu làm thuốc:
– Chính sách ưu tiên trong đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền:
+ Đối với các thuốc được mua từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn từ nguồn thu hợp pháp khác của cơ sở y tế công lập thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu và ưu đãi trong mua thuốc đối với thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền được sản xuất từ nguồn dược liệu trong nước đáp ứng Thực hành tốt nuôi trồng, thu hái dược liệu.
+ Thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền được sản xuất trên cơ sở nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ hoặc cấp tỉnh đã được nghiệm thu; thuốc thuộc Danh mục sản phẩm quốc gia do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
+ Ưu tiên về trình tự, thủ tục, thời gian cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc đối với thuốc sản xuất từ nguồn dược liệu đáp ứng Thực hành tốt nuôi trồng, thu hái dược liệu; thuốc và nguyên liệu làm thuốc được sản xuất trên cơ sở nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đã được nghiệm thu; thuốc phục vụ yêu cầu quốc phòng, an ninh, khắc phục hậu quả sự cố, thiên tai, thảm họa, phòng, chống dịch bệnh.
+Áp dụng các cơ chế ưu đãi, hỗ trợ từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia và các quỹ khác hỗ trợ cho hoạt động khoa học và công nghệ trong nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm lâm sàng, chuyển giao công nghệ, sản xuất và thương mại hóa thuốc cổ truyền dưới dạng bào chế hiện đại, thuốc dược liệu được sản xuất trên cơ sở nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ.
Ưu tiên về trình tự, thủ tục, thời gian cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc đối với thuốc sản xuất từ nguồn dược liệu đáp ứng Thực hành tốt nuôi trồng, thu hái dược liệu.
+ Kết hợp đầu tư ngân sách nhà nước với huy động các nguồn lực khác cho phát triển công nghiệp sản xuất thuốc dược liệu và thuốc cổ truyền, thuốc sản xuất từ nguồn dược liệu trong nước; nuôi trồng, sản xuất dược liệu; phát hiện, bảo tồn và ứng dụng khoa học, công nghệ trong nghiên cứu, phát triển nguồn gen dược liệu quý, hiếm, đặc hữu.
+ Hỗ trợ, tạo điều kiện phát hiện, thử lâm sàng, đăng ký lưu hành, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có liên quan và kế thừa đối với thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu được sản xuất trên cơ sở nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ hoặc cấp tỉnh đã được nghiệm thu; tìm kiếm, khai thác, sử dụng dược liệu mới; xuất khẩu dược liệu nuôi trồng; di thực dược liệu; khai thác dược liệu thiên nhiên hợp lý; nghiên cứu, khảo sát, điều tra loài dược liệu phù hợp để nuôi trồng tại địa phương; phát triển các vùng nuôi trồng dược liệu; hiện đại hóa sản xuất và có chính sách xúc tiến thương mại để xuất khẩu thuốc dược liệu, thuốc cổ truyền.
+ Có chính sách bảo vệ bí mật trong bào chế, chế biến và dữ liệu thử nghiệm lâm sàng thuốc cổ truyền; đãi ngộ hợp lý đối với người hiến tặng bài thuốc cổ truyền quý cho Nhà nước; tạo điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề cho người sở hữu bài thuốc gia truyền được Bộ Y tế công nhận.
+ Có chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dược, hỗ trợ hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nghiên cứu, phát triển, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, sản xuất, thử nghiệm thuốc dược liệu và thuốc cổ truyền.
Cần có chính sách bảo vệ bí mật trong bào chế, chế biến và dữ liệu thử nghiệm lâm sàng thuốc cổ truyền.
– Chính sách gia hạn ‘bán tự động’:
Chính sách gia hạn “bán tự động” cho các thuốc cổ truyền, cơ sở sau khi nộp hồ sơ đúng quy định được tiếp tục sử dụng cho đến khi được gia hạn hoặc khi cơ quan tiếp nhận có văn bản thông báo không gia hạn hoặc thông báo tạm dừng sử dụng giấy đăng ký lưu hành do phát hiện thuốc cổ truyền, vị thuốc cổ truyền, dược liệu có nguy cơ không an toàn cho người sử dụng hoặc nghi ngờ giả mạo tài liệu pháp lý.
– Đơn giản hóa thành phần hồ sơ gia hạn:
Giảm thành phần hồ sơ từ 06 thành phần xuống còn 03 thành phần hồ sơ đối với thuốc nước ngoài và 02 thành phần hồ sơ đối với thuốc trong nước.
1.2 Bộ Y tế cũng đã ban hành Thông tư số 29/2025/TT-BYT ngày 01/7/2025 quy định về việc đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền, vị thuốc cổ truyền, dược liệu (thay thế Thông tư số 21/2018/TT-BYT, Thông tư số 39/2021/TT-BYT, Thông tư số 54/2024/TT-BYT) và chỉnh sửa một số nội dung theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền.
Trong đó, thuốc cổ truyền được miễn thử lâm sàng chia làm 03 nhóm:
(1) Bài thuốc cổ truyền trong sách của Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh do nhà xuất bản uy tín trong nước và ngoài nước xuất bản quy định tại Quyết định phê duyệt danh mục tạp chí khoa học được tính điểm của Hội đồng giáo sư nhà nước đối với ngành dược học và ngành y học.
Chúng ta đã biết, Việt Nam có 02 Đại danh y lớn là Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tĩnh, được coi là 02 ông tổ của ngành y học cổ truyền Việt Nam. Đặc biệt, Hải Thượng Lãn Ông đã được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. Đây là sự khẳng định của thế giới đối với sự đóng góp của ông đối với nền y học cổ truyền Việt Nam và thế giới. Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tĩnh đã để lại nhiều bài thuốc quý, nổi bật là các bộ sách: Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của Hải Thượng Lãn Ông và Nam Dược Thần Hiệu của Tuệ Tĩnh.
(2) Bài thuốc có trong chuyên luận dược điển Việt Nam hoặc dược điển một trong các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đây là những quốc gia có nền y học cổ truyền phát triển lâu đời và có nhiều điểm tương đồng trong lý luận của y học cổ truyền Việt Nam. Việc sử dụng kho tàng các bài thuốc đã được nghiên cứu này giúp đóng góp cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Phát huy ưu thế của các bài thuốc gia truyền góp phần chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
(3) Bài thuốc gia truyền đã được cấp giấy chứng nhận bài thuốc gia truyền theo quy định của pháp luật được đánh giá độc tính cấp và bán trường diễn. Để phát huy kinh nghiệm truyền thống, nhiều bài thuốc gia truyền đã được công nhận và đưa vào sản xuất phát huy tính đặc thù của y học cổ truyền trong dân gian. Có nhiều bài thuốc rất hiệu quả trên lâm sàng góp phần không nhỏ vào công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Tuy nhiên, hiện nay số lượng chuyên luận cho thuốc cổ truyền trong Dược điển Việt Nam còn ít; hệ thống kiểm nghiệm thuốc cổ truyền chưa được đầu tư và quan tâm đúng mức; tại địa phương chưa có cán bộ chuyên trách theo dõi công tác y học cổ truyền.
Ngoài ra, chưa có hướng dẫn riêng cho thử nghiệm lâm sàng thuốc cổ truyền. Một số bài thuốc lưu truyền rất lâu đời trong dân gian được nhân dân truyền tai có hiệu quả nhưng chưa được đánh giá đầy đủ an toàn và hiệu quả trên lâm sàng, dẫn đến khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ đăng ký.
2. Cần cơ chế riêng cho thuốc cổ truyền
Cũng theo thông tin từ Cục Quản lý Y Dược cổ truyền, Bộ Y tế, các quy định, hướng dẫn về thuốc cổ truyền hiện vẫn đang nằm rải rác trong Luật Dược và các thông tư, hướng dẫn, quy định chung. Điều này khiến cho người dân, các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp dược cổ truyền khó khăn, lúng túng trong quá trình thực thi các công việc liên quan đến Luật và các quy định, hướng dẫn dưới Luật.
Để phát huy được tinh hoa của Y học cổ truyền Việt Nam cần xây dựng khung pháp lý đặc thù cho thuốc cổ truyền, sớm ban hành Luật Y Dược cổ truyền chuyên biệt với những chính sách và quy định riêng theo đúng tinh thần chỉ đạo tại Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 9/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Hoàn thiện quy định về đăng ký lưu hành thuốc cổ truyền không chỉ là nhiệm vụ quản lý nhà nước, mà còn là bước đi chiến lược để bảo tồn và phát huy tinh hoa Y học cổ truyền Việt Nam.
Một cơ chế quản lý linh hoạt, khoa học, đặc thù sẽ giúp thuốc cổ truyền phát triển bền vững, vươn ra thế giới, góp phần khẳng định vị thế của y học cổ truyền trong nền y học hiện đại, hội nhập nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
(Nguồn: suckhoedoisong.vn)
Mô hình “làng dược liệu” đang mở ra hướng phát triển mới cho kinh tế xanh Việt Nam – nơi kết hợp giữa bảo tồn tri thức y học cổ truyền và du lịch sinh thái chữa lành.
Giữa xu thế phát triển kinh tế xanh và du lịch gắn với chăm sóc sức khỏe, mô hình “làng dược liệu” đang được nhiều địa phương ở Việt Nam hướng tới như một hướng đi bền vững. Đây là sự kết hợp hài hòa giữa bảo tồn tri thức y học cổ truyền, phát triển kinh tế cộng đồng và gìn giữ hệ sinh thái tự nhiên, mở ra một cách tiếp cận mới cho phát triển địa phương gắn với bản sắc văn hóa dân tộc.
Tiềm năng từ vùng đất và tri thức bản địa
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên dược liệu phong phú, với hàng nghìn loài cây thuốc quý sinh trưởng tự nhiên ở vùng núi, rừng sâu, đặc biệt tại khu vực Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên. Bên cạnh đó, tri thức y học dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số – như Dao, Thái, Mông, Tày – là kho tàng vô giá được truyền lại qua nhiều thế hệ. Họ biết cách nhận diện cây thuốc, kết hợp các vị thảo dược trong điều trị và chăm sóc sức khỏe hàng ngày.
Chính sự kết hợp giữa điều kiện tự nhiên thuận lợi và tri thức truyền thống đã tạo nên lợi thế đặc biệt để hình thành các “làng dược liệu” – nơi vừa trồng trọt, chế biến, bảo tồn cây thuốc, vừa đón du khách đến trải nghiệm văn hóa và khám phá y học cổ truyền.
Cấu trúc mô hình “làng dược liệu”
Một làng dược liệu hoàn chỉnh thường bao gồm các khu vực trồng cây thuốc, vườn sưu tầm và bảo tồn, khu chế biến thảo dược, không gian trải nghiệm và khu lưu trú cộng đồng. Người dân địa phương là chủ thể tham gia ở mọi công đoạn: từ chăm sóc cây thuốc, chế biến lá tắm, pha chế trà thảo mộc đến hướng dẫn du khách tham quan, tắm thuốc hay xông hơi.
Du khách đến đây không chỉ ngắm cảnh, nghỉ dưỡng mà còn có thể trực tiếp hái lá thuốc, học cách chế biến, nghe kể về công dụng của từng vị dược liệu. Một số nơi còn phát triển các dịch vụ trị liệu cổ truyền như massage thảo dược, xông hơi, tắm lá thuốc Dao đỏ… mang lại trải nghiệm vừa thư giãn vừa chữa lành.
Lợi ích đa chiều của mô hình “làng dược liệu”
Về kinh tế, mô hình này giúp người dân có thêm nguồn thu nhập ổn định nhờ kết hợp giữa nông nghiệp và du lịch. Việc trồng cây thuốc dưới tán rừng giúp tận dụng đất đai, tạo sinh kế xanh và góp phần giảm khai thác rừng tự nhiên. Các sản phẩm dược liệu như tinh dầu, trà thảo mộc, cao thuốc, lá tắm được đóng gói và thương mại hóa, trở thành sản phẩm đặc trưng của địa phương.
Về xã hội, mô hình “làng dược liệu” giúp bảo tồn và phát huy tri thức y học dân gian. Những bài thuốc, kinh nghiệm quý được ghi chép, hệ thống hóa và truyền dạy cho thế hệ trẻ, tránh nguy cơ mai một. Người dân bản địa, đặc biệt là phụ nữ, được tạo việc làm ngay tại quê hương, góp phần giữ chân lao động và phát triển du lịch cộng đồng.
Về môi trường, trồng dược liệu dưới tán rừng giúp duy trì độ che phủ, chống xói mòn và bảo tồn đa dạng sinh học. Việc khai thác hợp lý còn tạo động lực cho người dân tham gia bảo vệ rừng, chuyển đổi từ “khai thác” sang “nuôi dưỡng” tài nguyên thiên nhiên.
Về y học, du khách và người dân có cơ hội tiếp cận phương pháp chăm sóc sức khỏe tự nhiên, an toàn, mang tính phòng ngừa cao. Y học cổ truyền được kết nối với du lịch nghỉ dưỡng tạo nên xu hướng mới – du lịch chăm sóc sức khỏe toàn diện (wellness tourism).
Mô hình “làng dược liệu” giúp bảo tồn và phát huy tri thức y học dân gian.
Những thách thức đặt ra
Dù có nhiều tiềm năng, việc triển khai mô hình “làng dược liệu” vẫn còn gặp khó khăn. Nhiều vùng trồng quy mô nhỏ lẻ, chưa đạt chuẩn trồng dược liệu sạch (GACP-WHO). Việc chế biến, bảo quản và kiểm soát chất lượng còn hạn chế, khiến giá trị sản phẩm chưa cao.
Cơ sở hạ tầng du lịch ở nhiều bản làng còn thiếu, nguồn nhân lực am hiểu cả y học cổ truyền lẫn kỹ năng du lịch chưa nhiều. Ngoài ra, việc bảo tồn tri thức dân gian vẫn còn rời rạc, thiếu cơ chế chia sẻ lợi ích và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cộng đồng.
Hướng phát triển bền vững
Để “làng dược liệu” thực sự trở thành mô hình kinh tế xanh, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, người dân, nhà khoa học và doanh nghiệp. Trước hết, cần xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, chọn giống cây thuốc phù hợp từng vùng sinh thái, đồng thời tổ chức tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc và sơ chế dược liệu an toàn.
Bên cạnh đó, nên phát triển sản phẩm du lịch chuyên biệt gắn với y học cổ truyền – như “tour trải nghiệm dược liệu”, “tour tắm lá thuốc”, “ngày sống cùng người Dao” – kết hợp nghỉ dưỡng và ẩm thực bản địa có sử dụng thảo mộc. Việc xây dựng thương hiệu cho từng “làng dược liệu” cũng rất quan trọng, có thể gắn với chương trình OCOP hoặc phát triển nhãn hiệu tập thể để quảng bá rộng rãi.
Cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trẻ, đặc biệt là người dân bản địa, để họ trở thành hướng dẫn viên, kỹ thuật viên trị liệu hoặc chuyên gia truyền dạy tri thức cây thuốc. Đồng thời, ứng dụng công nghệ số trong quảng bá, bán sản phẩm dược liệu, liên kết với các doanh nghiệp du lịch và y học cổ truyền để mở rộng thị trường.
Mô hình “làng dược liệu” không chỉ là hướng đi kinh tế mà còn là con đường bảo tồn tri thức y học dân gian và phát triển bền vững. Khi được quy hoạch và đầu tư đúng mức, mô hình này có thể trở thành điểm sáng của kinh tế xanh Việt Nam – nơi con người sống hài hòa với thiên nhiên, gìn giữ văn hóa dân tộc và lan tỏa giá trị chữa lành của y học cổ truyền.
Đó không chỉ là một mô hình phát triển kinh tế, mà còn là hành trình khơi dậy sức mạnh của bản sắc Việt trong từng tán rừng, từng nắm lá thuốc và trong niềm tự hào của những con người sống nhờ núi rừng – và gìn giữ núi rừng bằng chính tri thức của mình.
(Nguồn: suckhoedoisong.vn)
Trung bình mỗi năm Việt Nam có 75 người chết do bệnh dại, với chi phí điều trị dự phòng lên tới hơn 300 tỷ đồng cho khoảng 400.000 người. Năm 2024, cả nước ghi nhận 89 ca tử vong do bệnh dại, tất cả đều không tiêm phòng, chủ yếu do chó, mèo lây bệnh.
Năm 2024, cả nước ghi nhận 89 ca tử vong do bệnh dại, tất cả đều không tiêm phòng, chủ yếu do chó, mèo lây bệnh. (Ảnh: nhandan.vn)
Đây là nội dung được đưa ra thảo luận tại Hội nghị “Tăng cường vai trò các bên liên quan trong thực hiện các giải pháp của Chương trình quốc gia phòng chống bệnh dại giai đoạn 2022-2030” diễn ra ngày 12/11 ở Hà Nội.
75 người chết mỗi năm, chi phí phòng bệnh lên tới hàng trăm tỷ đồng
Chia sẻ tại hội nghị, ông Phạm Thành Long, đại diện Cục Chăn nuôi và Thú y (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết: bệnh dại là bệnh truyền nhiễm từ động vật sang người do virus Rhabdovirus gây ra. 99% trường hợp mắc ở người là do chó dại cắn.
Theo thống kê, mỗi năm thế giới có khoảng 59.000 người tử vong và hơn 10 triệu người phải tiêm vaccine phòng dại tại hơn 150 quốc gia, trong đó 95% các ca xảy ra ở châu Phi và châu Á. Đông Nam Á là điểm nóng của bệnh dại do lượng chó thả rông lớn, tỷ lệ tiêm phòng thấp, cùng với việc buôn bán thịt chó, mèo vẫn diễn ra. Trẻ em và người dân nông thôn chiếm tỷ lệ cao trong số ca tử vong.
Ông Phạm Thành Long, đại diện Cục Chăn nuôi và Thú y (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phát biểu tại Diễn đàn.
Tại Việt Nam, trung bình mỗi năm có 75 người chết vì bệnh dại, khoảng 400.000 người phải điều trị dự phòng bằng vaccine và huyết thanh kháng dại, chi phí ước tính hơn 300 tỷ đồng. Năm 2024, cả nước ghi nhận 89 người tử vong, tăng so với các năm trước. Tất cả nạn nhân đều không tiêm phòng, nguồn lây chủ yếu từ chó và mèo. Chín tháng đầu năm 2025, cả nước đã có 58 người tử vong tại 18 tỉnh, thành phố.
Nguyên nhân chủ yếu là do người dân chủ quan, không đi tiêm phòng sau khi bị chó hoặc mèo cắn, hoặc sử dụng các phương pháp chưa được kiểm chứng như thuốc đông y. Trẻ em thường không báo cho người lớn khi bị cắn. Nếu không áp dụng biện pháp phòng ngừa kịp thời, tỷ lệ tử vong gần như 100% khi triệu chứng bệnh xuất hiện.
Ông Long cho biết, tổng đàn chó cả nước trên 7 triệu con, nuôi tại hơn 3 triệu hộ gia đình. Cục Chăn nuôi và Thú y đã triển khai phần mềm quản lý thông tin đàn chó, tích hợp vào Hệ thống báo cáo dịch bệnh trực tuyến VAHIS, đồng thời xây dựng bản đồ phân bố đàn chó và dịch tễ bệnh dại. Nhiều địa phương như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nghệ An đã lập đội bắt chó thả rông và đường dây nóng tiếp nhận thông tin về bệnh dại.
Tỷ lệ đàn chó, mèo được tiêm phòng vaccine dại trên toàn quốc từ năm 2024 đến 2025 đạt hơn 56%, cao hơn gần 17% so với trung bình giai đoạn 2022-2023.
Phấn đấu không còn ca tử vong nhờ tiêm phòng và kiểm soát vật nuôi
Là một trong số các địa phương có số ca tỷ vong cao vì bệnh dại, bác sĩ Hoàng Hải Phúc-Giám đốc Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Đắk Lắk cho biết, hiện nay tổng đàn chó mèo trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và cả nước rất lớn, có xu hướng gia tăng do người dân nuôi canh giữ tài sản và làm thực phẩm nhiều.
Để kiểm soát được bệnh dại trên người, Giám đốc CDC Đắk Lắk kiến nghị Cục Chăn nuôi và Thú y, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần có biện pháp kiểm soát chặt chẽ đàn chó mèo và thống kê chính xác số lượng vật nuôi để có giải pháp tiêm phòng và khống chế dịch bệnh đạt hiệu quả cao hơn.
Toàn cảnh Hội nghị “Tăng cường vai trò các bên liên quan trong thực hiện các giải pháp của Chương trình quốc gia phòng chống bệnh dại giai đoạn 2022-2030”.
Ông Võ Hải Sơn, Phó Cục trưởng Phòng bệnh (Bộ Y tế), khẳng định: Chương trình quốc gia phòng, chống bệnh dại giai đoạn 2022-2030 đặt mục tiêu kiểm soát bệnh Dại ở chó mèo và phấn đấu không còn người tử vong vào năm 2030. Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai nhiều giải pháp, trong đó có Chỉ thị số 11/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường biện pháp phòng, chống bệnh dại.
Tại Hội nghị các chuyên gia khuyến cáo người dân cần nhận thức rõ mối nguy hiểm của bệnh dại. Nếu bị chó, mèo cắn, cần xử lý vết thương ngay và đến cơ sở y tế để tiêm phòng kịp thời; tuyệt đối không sử dụng thuốc nam, thuốc gia truyền hay phương pháp mê tín dị đoan. Việc tiêm phòng đầy đủ cho chó, mèo nuôi cũng rất quan trọng. Nhóm nguy cơ cao như nhân viên thú y, người làm việc tại cơ sở nuôi giữ động vật cũng cần tiêm phòng dự phòng trước khi phơi nhiễm.
Bà Jennifer Horton, đại diện Tổ chức WHO cho hay: Khi triệu chứng bệnh dại xuất hiện, tỷ lệ làm chết người lên tới 100%, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể phòng ngừa nếu điều trị dự phòng kịp thời bằng vaccine phòng dại sau phơi nhiễm.
Do vậy, Tổ chức Y tế thế giới đã trao tặng 9.000 liều vaccine phòng dại cho 2 tỉnh có nguy cơ cao là Phú Thọ và Tuyên Quang nhằm bảo vệ nhóm người dễ bị tổn thương, nhất là nhóm đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ em.
Tại hội nghị, đại diện WHO kêu gọi các cơ quan liên quan, các địa phương của Việt Nam và các quốc gia trên thế giới cùng vào cuộc mạnh mẽ hơn để ngăn chặn bệnh dại lây lan trên người nhằm phấn đấu không còn người tử vong do bệnh này vào năm 2030.
“WHO cam kết sẽ chung tay cùng với các quốc gia để thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp đến ngăn chặn bệnh dại trên thế giới. Trong đó bao gồm giải pháp giảm giá vaccine, bảo đảm nguồn cung sản phẩm này giúp mọi quốc gia đều có thể tiếp cận được để tiêm phòng đầy đủ”, bà Jennifer Horton khẳng định.
(Nguồn: nhandan.vn)
