Ngày 22/10/2025, Quốc hội thảo luận ở tổ về các dự án luật liên quan đến lĩnh vực giáo dục, gồm: Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi).
Tham gia thảo luận tại tổ 8, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đề xuất chính thức hóa việc đào tạo chuyên khoa đặc thù sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe, giao quyền quản lý đào tạo cho Bộ Y tế
Quang cảnh thảo luận tại Tổ 8 gồm Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, trong Nghị quyết 72-NQ/TW ngày 9/9/2025 của Bộ Chính trị “Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân”nêu rõ “thực hiện đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ sau đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong lĩnh vực sức khỏe do Bộ Y tế quản lý”.
Thực tế hiện nay, Luật Giáo dục đại học năm 2018 cũng đã đề cập nội dung này và đề nghị là giao cho Chính phủ quy định cụ thể. Trên cơ sở đó Bộ Y tế đã xây dựng Nghị định để hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục đại học năm 2018. Tuy nhiên Nghị định này vẫn đang chờ để được thực hiện, sau khi Luật Giáo dục đại học được sửa đổi và trình Quốc hội thông qua tại cái kỳ họp thứ 10 này.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 72, Bộ Y tế đang xây dựng một nghị quyết có đề cập vấn đề đào tạo chuyên sâu đặc thù trong lĩnh vực y tế. Trong quá trình triển khai xây dựng, báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì có hai luồng ý kiến.
Ý kiến thứ nhất đề nghị đưa nội dung đào tạo chuyên sâu, đặc thù trong nghị quyết về lĩnh vực y tế.
Ý kiến thứ hai là cùng với việc sửa đổi một loạt các luật liên quan đến giáo dục đào tạo thì có thể đưa luôn vào các nội dung của luật sửa đổi.
Từ đề xuất này, góp ý cho Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đề nghị bổ sung “trình độ chuyên khoa vào hệ thống văn bằng sau đại học, giao quyền quản lý đào tạo này cho Bộ Y tế”.
Bộ trưởng cho biết ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, sau khi tốt nghiệp Bác sĩ hoặc Dược sĩ thì người học phải tiếp tục học chương trình đào tạo chuyên khoa để trên cơ sở đó mới được hành nghề độc lập ví dụ như là nội khoa, ngoại khoa, sản phụ khoa, nhi khoa, hồi sức cấp cứu… chứ không phải học 6 năm đại học ra là có thể được hành nghề ngay. Việc đào tạo chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe trên thế giới được tổ chức theo hướng phát triển năng lực hành nghề chuyên sâu và các chương trình đào tạo chuyên khoa tối thiểu là 3 năm và chủ yếu được đào tạo tại bệnh viện nơi học viên vừa học, vừa làm và chịu sự giám sát của các Bác sĩ hoặc chuyên gia có kinh nghiệm tức là học và học thực hành luôn. Khi hoàn thành thì người học được cấp văn bằng học chứng chỉ chuyên khoa và là điều kiện bắt buộc để cấp phép thực hành nghề chuyên môn. Như vậy có thể thấy việc tổ chức đào tạo chuyên khoa về y tế trong hệ thống giáo dục đào tạo sau đại học là đặc thù và chịu sự giám sát trực tiếp của cơ quan y tế hoặc hội đồng hành nghề y quốc gia nhằm đảm bảo người được đào tạo có năng lực hành nghề độc lập và đảm bảo an toàn cho người bệnh. Ví dụ như Hoa Kỳ thì được hội đồng kiểm định các chương trình giáo dục y khoa sau đại học là cơ quan kiểm định độc lập công nhận. Các mô hình khác cũng đều có sự phối hợp của cơ quan hoạch định chính sách, năng lực chuẩn quốc gia như là Bộ Y tế, của Hội đồng hành nghề y, tổ chức kiểm định độc lập và cơ sở đào tạo ở các bệnh viện thực hành.
Còn tại Việt Nam trong hơn 50 năm qua triển khai đào tạo chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe theo ba hình thức: Chuyên khoa I, Chuyên khoa II và Bác sĩ nội trú với khoảng 7000 Bác sĩ chuyên khoa mỗi năm đã được đào tạo để cung cấp cho hệ thống các bệnh viện. Tuy nhiên hoạt động đào tạo chuyên khoa lại chưa thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, không nằm trong các văn bản của luật giáo dục và luật giáo dục đại học, dẫn đến thiếu cơ sở pháp lý cho công tác đào tạo chuyên khoa và bác sĩ nội trú. Chính vì vậy việc cụ thể hóa nội dung “thực hiện đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ sau đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong lĩnh vực sức khỏe do Bộ Y tế quản lý” trong Nghị quyết 72 vào Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học là cần thiết.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đóng góp ý kiến cho Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi)
Bộ trưởng Đào Hồng Lan cũng đề xuất bổ sung sửa đổi một số điều khoản cụ thể như: với Dự thảo Luật giáo dục sửa đổi, tại khoản 3 điều 1, cần chỉnh sửa như sau “Chính phủ quy định cụ thể về quản lý văn bằng chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân, văn bằng trình độ của một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù”. Tại khoản 11, điều 1 dự thảo luật, ngoài đào tạo trình độ Thạc sĩ, trình độ Tiến sĩ thì bổ sung thêm một mục C là đào tạo trình độ chuyên khoa dành cho người học có trình độ từ đại học trở lên một số ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe.
Về công tác quản lý nhà nước, dự thảo luật quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình chịu trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục”, trong đó Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về đào tạo chuyên khoa và chuyên khoa sâu trong lĩnh vực y tế, đề nghị bổ sung nội dung “Các cơ quan trong phạm vi trách nhiệm quyền hạn của mình có trách nhiệm nghiên cứu dự báo nhu cầu nhân lực của ngành lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý, phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục”.
Tại khoản 2 điều 8 về mục tiêu đào tạo, chương trình, văn bằng, Bộ trưởng Đào Hồng Lan đề nghị bổ sung thêm điểm D: “chương trình đào tạo chuyên sâu trình độ sau đại học một số ngành trong lĩnh vực sức khỏe để cấp văn bằng chuyên khoa theo quy định của Bộ Y tế”.
Tại điều 22 về chuẩn chương trình đào tạo, đề nghị bổ sung khoản 4: “Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành chuẩn chương trình đào tạo, hướng dẫn việc xây dựng, rà soát, đánh giá, giám sát thực hiện việc chuẩn chương trình đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe”.
Tại điều 23 về xây dựng phát triển chương trình đào tạo, đề nghị bổ sung khoản 5: “Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành danh mục thống kê đào tạo quy định quy trình xây dựng thẩm định và ban hành chương trình đào tạo. Quy trình phê duyệt, điều chỉnh, chấm dứt và thực hiện chương trình đào tạo chuyên qua trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe.
Tại khoản 2 điều 24 về tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, đề nghị bổ sung thêm khoản 2: “Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt thực hiện chương trình đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe”.
Tại điều 25 về vấn đề tuyển sinh cũng bổ sung thêm nội dung trách nhiệm của Bộ Y tế ban hành quy chế tuyển sinh đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe.
Tại điều 26 về tổ chức đào tạo các cấp văn bằng chứng chỉ, đề nghị bổ sung khoản 9: “Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quy định đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe”.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan cũng đề xuất cho phép viên chức của bệnh viện công lập là cơ sở đào tạo thực hành trong các lĩnh vực sức khỏe được giao nhiệm vụ giảng dạy giáo dục như giảng viên cơ hữu tại các cơ sở giáo dục công lập. Bởi hầu hết các Bác sĩ giỏi của các bệnh viện đều là giảng viên thực hành hoặc là phụ trách các chuyên khoa của các đại học y và hệ thống đại học của cả nước. Nếu không có quy định cho phép thì sẽ dẫn đến thiếu đội ngũ giảng viên thực hành tại các cơ sở giáo dục.
Tại phần thảo luận về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), đại biểu Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức (đoàn TP.HCM) cho biết ông hiện được phân công phụ trách lĩnh vực các trường đại học y khoa tại Bộ Y tế, đồng thời có hơn 20 năm làm bác sĩ và giảng dạy sinh viên y khoa. “Tôi xin phát biểu với tất cả tâm huyết và kinh nghiệm thực tiễn của ngành y,” ông mở đầu.
‘Bộ Y tế không muốn giành việc của ai’
Theo ông Thức, ngành y có hệ thống đào tạo chuyên sâu riêng, gồm bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I và chuyên khoa II. Hiện nay lực lượng bác sĩ thuộc các chương trình này chiếm khoảng 2/3 nhân lực trình độ sau đại học trong ngành y.
Các chương trình này đã tồn tại từ thập niên 1970, theo mô hình của Pháp, và hiện nay được hơn 50 quốc gia công nhận. Ở Việt Nam, hệ thống này phát triển song song với đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó thạc sĩ – tiến sĩ thiên về nghiên cứu học thuật, còn chuyên khoa I, II và nội trú thiên về thực hành lâm sàng.
Đại biểu Nguyễn Tri Thức thảo luận về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) chiều 22-10.
“Tại các bệnh viện, phần lớn bác sĩ theo học chuyên khoa I, II; còn tại các trường đại học, giảng viên chủ yếu là thạc sĩ, tiến sĩ. Hai hướng này bổ sung cho nhau, không thể nói tiến sĩ giỏi hơn chuyên khoa II, hay thạc sĩ giỏi hơn chuyên khoa I. Một bên tập trung vào nghiên cứu học thuật, một bên chú trọng vào thực hành”, ông nhấn mạnh, đồng thời dẫn chứng tại các bệnh viện, phần lớn bác sĩ theo học chuyên khoa I, chuyên khoa II, còn tại các trường đại học thì đa số giảng viên là thạc sĩ, tiến sĩ.
Đại biểu cho biết, do trong thời gian dài, các văn bằng bác sĩ chuyên khoa và nội trú chưa được công nhận chính thức trong hệ thống văn bằng quốc gia, nên đã phát sinh nhiều bất cập cần được xem xét, điều chỉnh trong lần sửa đổi luật này.
Vì lẽ đó, ngày 9-9-2025, khi ban hành Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị, trong Nghị quyết này có ghi một câu rất rõ: “Thực hiện đào tạo chuyên sâu, đặc thù trình độ sau đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”.
Điều đó có nghĩa là Bộ Chính trị đã chính thức công nhận đây là một bộ phận thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, bởi lẽ ngành y là một lĩnh vực đào tạo đặc thù, tồn tại khách quan và có đóng góp rất lớn cho ngành y tế nước ta từ trước tới nay – thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong lĩnh vực sức khỏe, do Bộ Y tế quản lý. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) lần này, không thấy một chữ nào nhắc đến ‘Bộ Y tế’.
“Điều tôi nhận thấy là toàn bộ hệ thống giáo dục y tế trong dự thảo này đều do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Theo tôi, không biết dùng từ gì cho đúng nếu thực sự điều này xảy ra”, ông bày tỏ. Đồng thời nhấn mạnh, Bộ Y tế không hề muốn ‘giành việc’ của ai. Ngành y vốn đã rất vất vả. Vấn đề ở đây là tính đặc thù khách quan của lĩnh vực y tế – một ngành thực hành, không thể tách khỏi bệnh viện.
Ngành y là khoa học thực hành, không thể tách rời bệnh viện
Theo đại biểu, đào tạo bác sĩ phải gắn chặt với bệnh viện và người bệnh. “Càng ngồi giảng đường nhiều bao nhiêu, bác sĩ càng dở bấy nhiêu. Một bác sĩ giỏi phải học từ bệnh nhân, coi bệnh nhân là người thầy của mình,” ông chia sẻ.
Ông dẫn chứng: sinh viên y khoa ngay từ năm thứ nhất đã đi thực tập, và suốt sáu năm học, 2/3 thời gian ở bệnh viện, chỉ 1/3 ở giảng đường. Mỗi trường y đều có bệnh viện thực hành bắt buộc – như Đại học Y Dược TP.HCM gắn với Bệnh viện Chợ Rẫy, Đại học Y Hà Nội gắn với Bệnh viện Bạch Mai.
“Vì vậy, nếu Luật sửa đổi vẫn quy định toàn bộ hệ thống giáo dục y tế do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, tôi thật sự không hiểu Bộ sẽ quản lý thế nào với lĩnh vực có tính chuyên môn sâu như ngành y,” đại biểu nêu ý kiến.
Đại biểu cũng đánh giá, hiện nay, hệ thống đào tạo y khoa đang phân tán, các trường cao đẳng điều dưỡng trước đây do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp phép; Trường đại học y tư thục do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Bộ Y tế chỉ trực tiếp quản lý 11 trường đại học y công lập trên toàn quốc.
“Tình trạng mỗi bộ quản lý một kiểu khiến chất lượng đào tạo không đồng đều, trong khi Bộ Y tế lại phải sử dụng nhân lực do các nơi khác đào tạo,” ông Thức nêu thực tế.
Từ thực tiễn đó, đại biểu Nguyễn Tri Thức cho rằng cần giữ nguyên các trường đào tạo khối ngành sức khỏe thuộc sự quản lý của Bộ Y tế, vì điều đó phù hợp với lịch sử, thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế.
“Chỉ có Bộ Y tế mới nắm rõ được nhu cầu nhân lực, số lượng bác sĩ từng chuyên khoa, cũng như điều phối được nguồn lực y tế giữa các vùng. Nếu chuyển toàn bộ về Bộ Giáo dục, đây sẽ là vấn đề rất nghiêm trọng đối với ngành y Việt Nam, chứ không phải là một việc đơn giản về mặt tổ chức hay hành chính.” ông Thức cho biết.
Thời điểm lũ lụt bủa vây, hơn 4.000 bệnh nhân nội trú tại 2 cơ sở của Bệnh viện Trung ương Huế vẫn được điều trị an toàn, ổn định. Nhờ sự chủ động và phản ứng nhanh, mọi hoạt động tại bệnh viện được vận hành suôn sẻ, đảm bảo.
Đảm bảo tuyệt đối an toàn cho người bệnh
Là bệnh viện hạng đặc biệt nằm ở miền Trung, mỗi ngày Bệnh viện Trung ương Huế tiếp nhận, thăm khám, điều trị cho hàng nghìn bệnh nhân, được xem như “điểm tựa” vững chắc cho nhân dân trong và ngoài khu vực.
Những ngày này, khi mưa lớn kéo dài và nước lũ dâng cao, Bệnh viện Trung ương Huế đang có hơn 4.000 bệnh nhân nội trú điều trị tại 2 cơ sở, trong đó cơ sở 1 nằm ở vùng thấp, chịu ảnh hưởng trực tiếp của lũ.
Lực lượng quân đội hỗ trợ di chuyển bệnh nhân trong đêm.
Khi nước sông Hương dâng cao, Ban Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế lập tức kích hoạt phương án phòng chống mưa lũ cấp độ khẩn cấp, triển khai phương châm “bốn tại chỗ”. Toàn bộ bệnh nhân ở tầng thấp được di chuyển lên tầng trên hoặc sang khu vực cao hơn. Các thiết bị, hồ sơ bệnh án, thuốc men được kê cao và bảo quản an toàn.
Đặc biệt, hệ thống điện, oxy và nước sinh hoạt – những yếu tố sống còn của bệnh viện được đội ngũ kỹ thuật giám sát, gia cố liên tục để không xảy ra gián đoạn. Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng, toàn bộ bệnh nhân được bảo đảm an toàn tuyệt đối. Công tác điều trị diễn ra ổn định và liên tục, dù bệnh viện đang ở tâm lũ.
Chị Cao Thị Minh Hồng (trú tại Quảng Trị, bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế) chia sẻ: “Cảnh đi viện vốn đã rất vất vả, nên khi thấy nước lũ dâng tôi thật sự lo lắng. Tuy nhiên, nhờ sự chủ động của đội ngũ y bác sĩ cùng lực lượng chức năng, đến nay chúng tôi rất yên tâm tiếp tục điều trị bệnh”.
ThS.BSCKII Hoàng Thị Lan Hương, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế cho biết, khi lũ dâng, bệnh viện huy động toàn bộ lực lượng tại chỗ gồm hàng trăm y bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, nhân viên hậu cần và bảo vệ. Các tổ công tác được phân công trực 24/24 giờ, chia thành nhiều nhóm chuyên trách di dời bệnh nhân, đảm bảo hậu cần, vận hành hệ thống điện, oxy, trực cấp cứu và vận chuyển thuốc men.
Các nhân viên y tế hỗ trợ di chuyển bệnh nhân.
“Nhiều cán bộ, y bác sĩ chủ động ở lại bệnh viện nhiều ngày liền, làm việc xuyên đêm trong điều kiện ngập nước, với tinh thần “bám trụ vì người bệnh”. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị giúp bệnh viện vận hành thông suốt, không để xảy ra gián đoạn trong chăm sóc và điều trị”, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế nói.
Ứng phó linh hoạt
TS.BS Nguyễn Thanh Xuân, Phó Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế cho biết, đợt mưa lũ khiến gần như toàn bộ tầng 1 của cơ sở 1 bệnh viện bị ngập sâu, ảnh hưởng đến nhiều khoa, phòng như Da liễu, Bệnh phổi, Bệnh Nhiệt đới, Nội Thần kinh – Đột quỵ, Trung tâm Nhi, Tai Mũi Họng, Ngoại Tiêu hóa, Răng Hàm Mặt và Trung tâm Tim mạch.
Ngay khi phát hiện nước dâng nhanh, các khu vực này được phong tỏa tạm thời, khẩn trương di dời bệnh nhân và thiết bị y tế lên tầng 2. Toàn bộ máy móc, hồ sơ và thuốc men được bảo quản an toàn. Các lối di chuyển được kiểm soát nghiêm ngặt để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người bệnh và nhân viên y tế.
“Đến tối cùng ngày, bệnh viện vẫn duy trì điều trị bình thường, minh chứng cho khả năng điều hành hiệu quả trong tình huống khẩn cấp”, TS.BS Nguyễn Thanh Xuân chia sẻ.
Ông Nguyễn Chí Tài, Phó Bí thư Thành ủy, Phó Chủ tịch UBND TP Huế kiểm tra công tác ứng phó mưa lũ tại Bệnh viện Trung ương Huế tối 27/10.
Theo lãnh đạo bệnh viện, Huế là địa phương thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là lũ lụt. Trong hơn 131 năm hình thành và phát triển, bệnh viện trải qua nhiều trận lũ lớn, trong đó các năm 1999 và 2020 được xem là lịch sử.
“Lũ lần này diễn biến nhanh và phức tạp, đòi hỏi phản ứng khẩn cấp trong thời gian rất ngắn. Nhờ kinh nghiệm dày dạn và sự chuẩn bị kỹ lưỡng, bệnh viện đã chủ động triển khai hiệu quả, không để xảy ra thiệt hại, khẳng định bản lĩnh “vững vàng trong gian khó” của đơn vị đầu ngành y tế miền Trung”, lãnh đạo bệnh viện chia sẻ.
Theo ghi nhận, dù bị nước lũ bủa vây, hoạt động cấp cứu tại bệnh viện vẫn diễn ra bình thường. Các khoa trọng điểm như Trung tâm Cấp cứu, Tim mạch, Đột quỵ, Hồi sức tích cực, Nhi đều duy trì vận hành liên tục.
Đội ngũ y tế túc trực suốt ngày đêm, sử dụng xuồng nhỏ để vận chuyển thuốc men, vật tư y tế, lương thực, thực phẩm đến những khu vực bị ngập sâu. Hệ thống điện dự phòng, máy thở, oxy trung tâm luôn trong trạng thái sẵn sàng.
Công tác điều trị bệnh nhân đang diễn ra bình thường tại bệnh viện.
“Trong mọi hoàn cảnh, chúng tôi luôn xác định người bệnh là trung tâm, an toàn là ưu tiên hàng đầu. Đội ngũ cán bộ, y bác sĩ phát huy tinh thần “Lương y như từ mẫu”, sẵn sàng bám trụ, phục vụ bệnh nhân dù trong điều kiện khắc nghiệt nhất”, lãnh đạo Bệnh viện Trung ương Huế nhấn mạnh.
Đến sáng nay (28/10), phần lớn khuôn viên Bệnh viện Trung ương Huế vẫn ngập nước, dù vậy các hoạt động cấp cứu, điều trị luôn được đảm bảo. Bệnh viện sẵn sàng các phương án, để khi nước rút sẽ tiến hành vệ sinh môi trường, khử khuẩn đảm bảo mọi điều kiện tốt nhất cho người bệnh.
Thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch; khám, chữa bệnh; phát triển kỹ thuật mới, chuyên sâu… đến các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Nhấn nút khởi công xây dựng Bệnh viện đa khoa Thái Bình, tỉnh Hưng Yên.
Tăng cường năng lực cho cơ sở khám chữa bệnh
Trong những năm qua, tỉnh Hưng Yên đã quan tâm đầu tư hạ tầng, trang thiết bị y tế, đào tạo nhân lực phục vụ công tác khám chữa bệnh và nâng cao sức khỏe người dân đạt được nhiều kết quả quan trọng: số giường bệnh/1 vạn dân đạt 33 giường; số bác sĩ/1 vạn dân đạt 10 bác sĩ; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95%; 100% xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Nhiều cơ sở y tế công lập: Bệnh viện phổi, Bệnh viện Y dược cổ truyền, Bệnh viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Sản nhi… được đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp mua sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ khám, chữa bệnh.
Ngành y tế triển khai nhiều giải pháp nâng cao y đức cũng như nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế.
Cán bộ trung tâm y tế tiêm phòng cho học sinh Trường THCS Lê Lợi, phường Phố Hiến, tỉnh Hưng Yên.
Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong khám chữa bệnh được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực: Triển khai chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin từ quản lý y tế, bảo hiểm y tế, bệnh án điện tử tiến tới chẩn đoán, xét nghiệm, khám, chữa bệnh từ xa theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Triển khai đồng bộ hệ thống công nghệ thông tin trong quản lý trạm y tế, tiêm chủng, quản lý bệnh tật; gắn việc quản lý các hoạt động chuyên môn với quản lý hồ sơ sức khỏe cá nhân và dữ liệu dân cư. Triển khai kết nối đồng bộ quản lý hồ sơ sức khỏe cá nhân với hồ sơ bệnh án khám, chữa bệnh, theo dõi bệnh không lây nhiễm, các chương trình dự án khác liên quan dựa trên nền tảng số và cơ sở dữ liệu lớn, tập trung.
Những giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành y tế tỉnh Hưng Yên còn một số tồn tại, hạn chế: Một số công trình hạ tầng của cơ sở y tế công lập, nhất là trạm y tế xã đã hư hỏng, xuống cấp ảnh hưởng đến công tác khám chữa bệnh. Kinh phí đầu tư cho cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin tại nhiều cơ sở y tế còn khó khăn; chưa có hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ toàn ngành, để thu thập, lưu trữ, khai thác, chia sẻ thông tin y tế.
Chất lượng môi trường sống, làm việc, chế độ dinh dưỡng, rèn luyện thân thể và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ở nhiều nơi chưa được bảo đảm đầy đủ. Nhiều hành vi, thói quen có hại cho sức khỏe vẫn chưa được khắc phục một cách căn bản. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em còn ở mức cao. Công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm còn nhiều bất cập.
Bệnh viện Hưng Hà, tỉnh Hưng Yên đầu tư trang thiết bị y tế hiện đại phục vụ khám, chữa bệnh.
Để khắc phục căn bản những tồn tại, hạn chế nêu trên, góp phần thực hiện tốt công tác phát triển hạ tầng y tế, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe của nhân dân, Giám đốc Sở Y tế tỉnh Hưng Yên Nguyễn Thị Anh cho biết: Ngành y tế Hưng Yên đang triển khai nhiều nhiệm vụ, giải pháp, trong đó trọng tâm: Làm tốt công tác tham mưu với cấp có thẩm quyền trong việc kiện toàn tổ chức bộ máy ngành y tế Hưng Yên bảo đảm phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp gắn với mô hình phân tầng kỹ thuật y tế rõ ràng, hiệu quả bảo đảm tính kế thừa, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cấp chuyên môn; bố trí kinh phí đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các bệnh viện công lập, trung tâm y tế và các trạm y tế cơ sở nhằm nâng cao năng lực, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh nhân dân, bảo đảm người dân dễ tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế có chất lượng tốt, chi phí hợp lý.
Tập trung đầu tư, hoàn thiện hạ tầng y tế đồng bộ từ tuyến tỉnh đến cơ sở; ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa bệnh viện đa khoa tỉnh, các bệnh viện chuyên khoa; xây dựng trung tâm y tế chất lượng cao theo chuẩn vùng; từng bước đồng bộ hóa trang thiết bị y tế hiện đại.
Phát triển hệ thống y tế cơ sở, trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, bảo đảm khả năng chăm sóc sức khỏe ban đầu và quản lý sức khỏe toàn dân. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ của ngành y tế để thực hiện hiệu quả công tác chuyển đổi số, giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin y tế và sử dụng các dịch vụ y tế có hiệu quả cao, qua đó góp phần bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Khuyến khích, đẩy mạnh công tác tư vấn khám chữa bệnh từ xa nhằm giảm lưu lượng người dân đến cơ sở y tế, đặc biệt là các bệnh viện tuyến trên. Thực hiện xã hội hóa dịch vụ y tế ở bệnh viện công và phát triển y tế tư nhân tham gia vào công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Triển khai thực hiện tốt chủ trương tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người dân ít nhất 1 năm 1 lần. Phát triển y tế gắn với an sinh xã hội và công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Tiếp tục mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân; bảo đảm quyền lợi khám, chữa bệnh cho người có thẻ bảo hiểm y tế; quan tâm nhóm yếu thế như trẻ em, người già, người nghèo, người có công.
Chú trọng công tác y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu, đồng thời, tăng cường giám sát chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại cả công lập và tư nhân. Chủ động giám sát, kiểm soát dịch bệnh; mở rộng tiêm chủng; tăng cường tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận thức của người dân về phòng bệnh, dinh dưỡng hợp lý, luyện tập thể chất, nâng cao tầm vóc và tuổi thọ.
Cán bộ y bác sĩ khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ y tế các cấp. Có chính sách khuyến khích cán bộ y tế có năng lực, trình độ ở các bệnh viện tuyến tỉnh về công tác tại các trung tâm y tế, trạm y tế xã để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe của người dân.
Tăng cường hợp tác với các bệnh viện trung ương, trường đại học y dược trong đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, khám chữa bệnh từ xa. Huy động và đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho y tế. Khuyến khích xã hội hóa, hợp tác công-tư, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào y tế chất lượng cao, bệnh viện tư nhân, phòng khám chuyên khoa, dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Nhất là tiếp tục quan tâm củng cố, nâng cao năng lực y tế cơ sở, đây là tuyến y tế gần dân nhất, đóng vai trò “gác cửa” của hệ thống y tế, cần được củng cố toàn diện, bảo đảm chức năng chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng, quản lý bệnh mãn tính, phát hiện sớm và điều trị ban đầu, khám sức khỏe định kỳ, cập nhật sử dụng hồ sơ sức khỏe điện tử… Hệ thống y tế cơ sở phải mạnh, đủ năng lực, đủ con người, đủ công nghệ, phải là nơi người dân đặt niềm tin.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ giúp ngành y tế Hưng Yên phát triển hiện đại, đồng bộ, công bằng và bền vững; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe, cải thiện tầm vóc, nâng cao tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Sở Y tế Quảng Ninh vừa triển khai công tác sắp xếp hệ thống y tế theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Đây là hoạt động cụ thể hóa Kế hoạch của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc tinh gọn tổ chức bộ máy và sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập trên toàn địa bàn tỉnh
Tại hội nghị, Giám đốc Sở Y tế Quảng Ninh Nguyễn Trọng Diện khẳng định: Việc triển khai sắp xếp lại hệ thống y tế theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp không chỉ là sự điều chỉnh mang tính hành chính mà là một bước chuyển đổi có cơ sở khoa học, dựa trên tổng kết thực tiễn vận hành nhiều năm và đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Ngành y tế Quảng Ninh sắp xếp lại một số đơn vị y tế đáp ứng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.
“Có thể nói, sắp xếp tổ chức y tế lần này không chỉ giải quyết vấn đề trước mắt mà mở ra nền tảng bền vững cho tương lai: một hệ thống y tế tinh gọn – hiệu lực – tiết kiệm – hiện đại, hoạt động đúng chức năng và hướng tới mục tiêu cao nhất là chăm sóc sức khỏe nhân dân một cách công bằng, chất lượng và an toàn”, ông Diện nhấn mạnh.
Tại hội nghị, ông Nguyễn Xuân Tình – Chánh Văn phòng Sở Y tế Quảng Ninh đã công bố các quyết định về việc thành lập và tổ chức lại các Trạm Y tế và Bệnh viện đa khoa khu vực; đồng thời công bố các quyết định về công tác cán bộ liên quan đến việc sắp xếp, kiện toàn bộ máy nhân sự sau khi hợp nhất.
Giám đốc Sở Y tế Quảng Ninh Nguyễn Trọng Diện chỉ đạo hội nghị.
Ngành y tế Quảng Ninh sắp xếp 13 Trung tâm Y tế thành 5 Bệnh viện đa khoa khu vực tại Đông Triều, Quảng Yên, Vân Đồn, Tiên Yên và Móng Cái.
Theo đó, sáp nhập Bệnh viện Đa khoa Hạ Long vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh; sáp nhập Trung tâm bảo trợ tâm thần vào Bệnh viện Bảo vệ sức khỏe tâm thần thành Bệnh viện sức khỏe tâm thần; sắp xếp 13 Trung tâm Y tế thành 5 Bệnh viện đa khoa khu vực tại Đông Triều, Quảng Yên, Vân Đồn, Tiên Yên và Móng Cái, đồng thời sáp nhập 3 đơn vị: Trung tâm Công tác xã hội, Trung tâm Bảo trợ xã hội và Cơ sở bảo trợ, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt thành Trung tâm Trợ giúp xã hội Quảng Ninh; Bệnh viện Phổi trực thuộc Sở Y tế được tổ chức trên cơ sở sáp nhập Trung tâm Y tế Hạ Long; các Trạm Y tế mới được tổ chức thành 55 Trạm Y tế và 92 điểm trạm trên cơ sở sắp xếp lại 171 trạm y tế cũ, trong đó 26 trạm không còn phù hợp về quy mô dân số hoặc địa bàn được dừng hoạt động.
Phát biểu bế mạc, Giám đốc Sở Y tế Quảng Ninh Nguyễn Trọng Diện ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của toàn ngành trong việc chủ động chuẩn bị, phối hợp triển khai đồng bộ các bước sắp xếp hệ thống và đề nghị các đơn vị sau khi tiếp nhận quyết định phải khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, phân công rõ trách nhiệm, thời hạn, sản phẩm đầu ra và báo cáo tiến độ định kỳ để Sở Y tế theo dõi, đôn đốc và kịp thời tháo gỡ khó khăn.
Ông Diện cũng mong muốn, mỗi cán bộ lãnh đạo vừa được bổ nhiệm hôm nay cần nhanh chóng bắt tay vào việc, thể hiện vai trò đầu tàu, truyền cảm hứng và dẫn dắt tập thể thực hiện nhiệm vụ với tinh thần quyết liệt, gương mẫu và công tâm.
Các đơn vị y tế được công bố sắp xếp cũng bày tỏ quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân trong bối cảnh đổi mới mô hình quản lý.
Những năm qua, các thầy thuốc của ngành y tế Việt Nam đã không ngừng trau dồi chuyên môn, làm chủ nhiều kỹ thuật cao trong khám chữa bệnh, không chỉ góp phần nâng cao sức khoẻ nhân dân trong nước mà còn làm rạng danh, nâng tầm thương hiệu y tế Việt Nam…
Trong giai đoạn 2020-2025, phong trào thi đua yêu nước của ngành y tế nói chung, các bệnh viện nói riêng luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật cao để nâng chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân…
Làm chủ nhiều kỹ thuật khó về ghép đa tạng
Các bác sĩ thực hiện ghép tim cho người bệnh tại Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN phát
Hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không ngừng được củng cố và phát triển. Chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh ở tất cả các tuyến chuyên môn kỹ thuật được chú trọng nâng cao. Các bệnh viện tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng thông qua việc áp dụng, cập nhật, triển khai các hướng dẫn kỹ thuật.
Cùng với đó, mạng lưới bệnh viện vệ tinh được mở rộng; hình thành và phát triển hệ thống khám, chữa bệnh từ xa, kết nối bệnh viện tuyến trên với hơn 1.500 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc, kể cả vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Việt Nam đã tiếp cận và làm chủ được những kỹ thuật đỉnh cao trong lĩnh vực y khoa (như ghép tạng, ghép đa tạng trên một người bệnh, can thiệp tim bào thai, các kỹ thuật can thiệp tim mạch; hỗ trợ sinh sản (thụ tinh trong ống nghiệm); ghép tế bào gốc; kỹ thuật mổ cột sống có sử dụng Robot; kỹ thuật cấy tim nhân tạo; kỹ thuật sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư…)
Trong đó, có nhiều chuyên ngành, lĩnh vực y khoa, do chính các bác sĩ Việt Nam làm thầy, chuyển giao kỹ thuật cho bác sĩ của các nước trên thế giới. Các kỹ thuật này đã và đang tiếp tục được chuyển giao từ các chuyên gia của bệnh viện tuyến trung ương, bệnh viện tuyến trên tới bệnh viện các địa phương trên cả nước.
Những bước tiến vượt bậc
Một ca nội soi tầm soát ung thư bệnh lý tiêu hóa trong chương trình khám miễn phí tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN
Trong những năm qua, ngành Y tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong việc ứng dụng các kỹ thuật cao, chuyên sâu trong khám chữa bệnh.
Nổi bật trong số đó là Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế – những đơn vị điển hình tiên tiến tiêu biểu trong lĩnh vực ghép tạng và kỹ thuật y học hiện đại góp phần quan trọng trong cứu sống nhiều bệnh nhân nặng, mang lại cơ hội sống mới cho hàng ngàn người.
Với sự phát triển vượt bậc về trình độ chuyên môn, trang thiết bị hiện đại và đội ngũ y bác sĩ tâm huyết, ba bệnh viện này là hình mẫu tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước ngành Y tế, góp phần đưa nền y học Việt Nam tiệm cận trình độ khu vực và thế giới.
Đây cũng là minh chứng rõ rệt cho sức mạnh của đổi mới, sáng tạo và nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, thực hiện sứ mệnh “chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân” trong thời đại mới. Điển hình là các bác sĩ của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức thành công trong ghép đồng thời khối tim-phổi đầu tiên tại Việt Nam.
Trong ca phẫu thuật kéo dài 7 tiếng liên tục, các chuyên gia của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức phải sử dụng hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể thay thế tạm thời tim và phổi trong suốt thời gian đó. Để đảm bảo tim hoạt động tốt nhưng cần tránh truyền nhiều dịch gây phù phổi, dùng ít thuốc mê và đưa vào các phương tiện theo dõi huyết động tiên tiến nhất.
Các bác sĩ cũng tiến hành cắt bớt phổi hai bên cho vừa, nối hai phế quản gốc thay vì nối khí quản theo kinh điển để tưới máu miệng nối tốt hơn, soi phế quản ống mềm trong mổ đánh giá 2 miệng nối phế quản gốc.
Với thành công này, các bác sĩ Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức đã đưa Việt Nam vào nhóm rất ít quốc gia làm chủ kỹ thuật ghép đa tạng phức tạp nhất thế giới, mở ra cơ hội sống mới cho bệnh nhân suy đa tạng.
Tiến sĩ Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế) đánh giá, kỳ tích này không chỉ là chiến thắng của riêng Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức mà còn là niềm tự hào của ngành y tế Việt Nam, là minh chứng rằng, y học Việt Nam hoàn toàn có thể chinh phục những đỉnh cao kỹ thuật từng được coi là bất khả thi, góp phần nâng tầm vị thế y học Việt Nam trên trường quốc tế.
“Dù Việt Nam đi sau nhiều năm so với thế giới, nhưng hiện nay chúng ta tự tin sánh ngang với các cường quốc năm châu về ghép tạng. Trình độ của đội ngũ cán bộ, khả năng hiệp đồng, ý chí quyết tâm của các bác sĩ đã làm nên thành công này”, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh Hà Anh Đức khẳng định.
Hỗ trợ sinh sản có tỷ lệ thành công ngang tầm thế giới
Bệnh viện Phụ sản Hà Nội phát triển nhiều kỹ thuật cao trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản mang lại hạnh phúc cho hàng trăm cặp vợ chồng hiếm muộn. Ảnh tư liệu: Dương Ngọc/TTXVN
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, Việt Nam có hơn 70 trung tâm hỗ trợ sinh sản, trong đó gần 10 trung tâm được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trong số các trung tâm này, có 2 bệnh viện công lập đạt chất lượng ngang tầm khu vực và quốc tế, bao gồm Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Đây là một kết quả rất đáng mừng dù lĩnh vực hỗ trợ sinh sản của Việt Nam đi sau thế giới rất nhiều năm.
Đến nay, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam đã áp dụng các quy trình quản lý chất lượng quốc tế, bao gồm: Quản lý chất lượng trong các khâu lâm sàng, phòng thí nghiệm và quản trị; ứng dụng công nghệ số để theo dõi, quản lý chất lượng các quy trình; đạt các chứng nhận quốc tế về quản lý chất lượng.
Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương Nguyễn Duy Ánh cho biết: “Lĩnh vực hỗ trợ sinh sản của Việt Nam dù đi sau thế giới gần 15-20 năm nhưng cũng đã nhanh chóng theo kịp thế giới về chất lượng. Riêng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, tỷ lệ thành công của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đạt khoảng 60%, tương đương với khu vực và quốc tế”.
Bên cạnh đó, đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVF Mỹ Đức (IVFMD) mới đây đã công bố thành tựu khoa học mới mang tên “Phác đồ Sài Gòn” (Saigon Protocol) – phác đồ điều trị hiếm muộn mới do đội ngũ bác sĩ IVF Mỹ Đức nghiên cứu và phát triển, dựa trên các phát kiến gần đây của thế giới về thụ tinh trong ống nghiệm không kích thích buồng trứng.
Kết quả của phác đồ điều trị mới này đã được đăng tải trên tạp chí quốc tế Fertility & Sterility – tạp chí chuyên ngành chính thức của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ.
“Phác đồ Sài Gòn” cũng được giới thiệu tại Hội nghị khu vực Asia CORE 2025 tổ chức tại Bali (Indonesia), cùng nhiều hội nghị khoa học quốc tế khác, đánh dấu một bước tiến quan trọng của chuyên ngành hỗ trợ sinh sản Việt Nam trên bản đồ hỗ trợ sinh sản toàn cầu.
Nhiều gia đình hiếm muộn có được niềm vui làm cha mẹ khi các thầy thuốc Việt Nam làm chủ nhiều kỹ thuật cao trong chuyên ngành hỗ trợ sinh sản.
“Phác đồ Sài Gòn” giúp tiết kiệm chi phí (giảm khoảng 30% chi phí thuốc kích thích buồng trứng, không phải đông lạnh phôi và chuyển phôi đông lạnh); không đau do không tiêm thuốc (người vợ tránh được giai đoạn tiêm kích thích buồng trứng, thân thiện hơn và giảm stress khi điều trị); an toàn hơn (vì không tiêm thuốc nên loại bỏ nguy cơ quá kích buồng trứng); rút ngắn thời gian điều trị (chỉ cần một chu kỳ duy nhất cho cả chọc hút và chuyển phôi tươi).
Cùng đó, chất lượng phôi và nội mạc tốt hơn (nội mạc không chịu tác động của quá nhiều hormone, phôi không bị ảnh hưởng bởi đông lạnh – rã phôi, sức sống của phôi được cải thiện, từ đó nâng cao tỉ lệ thành công)…
Ngành y tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng tự hào, không chỉ trong việc phát triển các kỹ thuật y khoa hiện đại mà còn trong việc khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Những nỗ lực của đội ngũ y bác sĩ Việt Nam trong việc làm chủ các kỹ thuật khó đã giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho người dân trong nước và quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ, y tế Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định vị thế và tầm ảnh hưởng của mình trên bản đồ y học thế giới.
Đầu tư nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở được xem vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là ưu tiên dài hạn; đổi mới mạng lưới y tế cơ sở được xem là thành tố trung tâm trong quá trình đổi mới hệ thống y tế quốc gia.
PGS Phan Lê Thu Hằng báo cáo về công tác y tế cơ sở tại Đại hội Thi đua yêu nước ngành Y tế lần thứ VIII – Ảnh: VGP/HM
Bộ Y tế vừa tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước ngành Y tế. Đây là dịp tôn vinh các tấm gương thi đua và khẳng định vai trò then chốt của ngành Y tế trong việc thực hiện các chỉ đạo chiến lược của Đảng và Nhà nước về công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Một trong những chỉ đạo đó là Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 25/10/2023 của Ban Bí thư về tiếp tục củng cố, hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động của y tế cơ sở trong tình hình mới. Chỉ thị này nhấn mạnh nhiệm vụ cấp thiết của ngành Y tế trong việc xây dựng nền tảng y tế cơ sở vững mạnh, đảm bảo chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khỏe cộng đồng, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững.
Thực tế thời gian qua, những nỗ lực củng cố, phát triển mạng lưới y tế cơ sở cũng đã góp phần cải thiện năng lực và hiệu quả hoạt động của mạng lưới này. Đây được ví như “người gác cổng” của hệ thống y tế Việt Nam trong vai trò tuyến đầu tiếp cận trực tiếp, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân, giúp sàng lọc, phòng ngừa bệnh tật và giảm gánh nặng cho tuyến trên.
Bên lề Đại hội Thi đua yêu nước ngành Y tế, phóng viên Báo Điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Phan Lê Thu Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ Y tế – người đã có hàng chục năm gắn bó với công tác y tế cơ sở trên cả nước.
Phát triển y tế cơ sở là xu hướng tất yếu – Ảnh: VGP/HM
Phát triển y tế cơ sở là xu hướng tất yếu
Theo bà Phan Lê Thu Hằng, hiện nay, xu hướng chú trọng chăm sóc sức khỏe ban đầu, dự phòng chủ động, nâng cao sức khỏe đang được xem có vai trò then chốt trong quá trình đổi mới của các hệ thống y tế trên toàn cầu.
Tại Việt Nam, những thách thức đối với công tác chăm sóc sức khỏe còn phức tạp hơn do những yếu tố nội tại như mô hình bệnh tật kép (sự kết hợp của bệnh lây nhiễm và bệnh không lây nhiễm), hệ thống cung ứng dịch vụ y tế còn phân mảnh và phụ thuộc nhiều vào bệnh viện, trong khi nguồn lực tài chính cho công tác chăm sóc sức khỏe còn khiêm tốn.
Chính vì vậy, công tác y tế cơ sở, y tế dự phòng luôn được Đảng, Nhà nước và ngành y tế đặc biệt quan tâm, coi là yếu tố nền tảng giúp hệ thống y tế Việt Nam vận hành hiệu quả hơn trong một môi trường ngày càng thách thức và biến động khó dự đoán.
Đầu tư nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở cũng được xem vừa là nhiệm vụ cấp bách vừa là ưu tiên dài hạn, đổi mới mạng lưới y tế cơ sở được xem là thành tố trung tâm trong quá trình đổi mới hệ thống y tế quốc gia.
Thời gian qua, Bộ Y tế đã dành ưu tiên cao nhất cho việc thiết kế và triển khai thực hiện một chương trình đổi mới và phát triển mạng lưới y tế cơ sở toàn diện trên toàn quốc, trong đó Bộ Y tế đã thực hiện hiệu quả các nỗ lực đổi mới và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trên 4 trụ cột chính.
Đó là tạo ra những cửa mở chính sách quan trọng, bao gồm cả những định hướng chiến lược phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong trung và dài hạn; cải thiện sự phối kết hợp liên ngành trong chăm sóc sức khỏe nói chung và đổi mới mạng lưới y tế cơ sở nói riêng; hoàn thiện hệ thống hướng dẫn chuyên môn liên quan tới y tế cơ sở; huy động nguồn lực (tài chính và kỹ thuật) để hỗ trợ các địa phương, đặc biệt là các địa phương khó khăn trong việc nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở.
Trong đó, công tác huy động nguồn lực hỗ trợ các địa phương đóng vai trò vô cùng quan trọng. Cụ thể, thời gian qua, Bộ Y tế đã tích cực mở rộng không gian hợp tác với các đối tác liên quan nhằm tăng cường huy động nguồn lực để hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở của các địa phương, bao gồm nguồn viện trợ không hoàn lại (WHO, UNICEF, UNFPA, các đối tác song phương…), nguồn vốn vay ưu đãi (WB, ADB), nguồn huy động từ một số đối tác thương mại thông qua sáng kiến kiến tạo hệ sinh thái chăm sóc sức khỏe ban đầu lần đầu được triển khai tại Việt Nam.
Cơ sở y tế được hưởng thụ từ Dự án sử dụng vốn nước ngoài – Ảnh: VGP/HM
Dự án đặc biệt, đánh dấu sự dịch chuyển mô hình quản trị về địa phương
Dự án Đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống cung ứng dịch vụ y tế tuyến cơ sở sử dụng vốn WB (Dự án WB) và Chương trình “Đầu tư phát triển Mạng lưới Y tế cơ sở vùng khó khăn” (chương trình ADB) sử dụng vốn ADB được đánh giá có tầm quan trọng đặc biệt, do quy mô nguồn vốn lớn và được thiết kế với các can thiệp kỹ thuật toàn diện nhằm nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở tại các tỉnh khó khăn.
2 dự án này sử dụng nguồn vốn của các nhà tài trợ khác nhau nhưng có thiết kế kỹ thuật khá tương đồng, với các can thiệp đồng bộ nhằm nâng cấp các yếu tố đầu vào thiết yếu (cơ sở hạ tầng, thiết bị y tế, nhân lực y tế) của mạng lưới y tế cơ sở, đồng thời hỗ trợ đổi mới mô hình cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Đặc biệt, 2 dự án này hoàn toàn khác biệt với những dự án sử dụng vốn ODA trước đây của ngành Y tế, đó là trao quyền tự chủ tối đa cho các địa phương. Theo đó, các tỉnh là chủ đầu tư dự án thành phần trên địa bàn, thực hiện toàn bộ các hoạt động đầu tư lớn của dự án. Mô thức quản trị này đánh dấu sự dịch chuyển quyền lực quản trị từ Trung ương sang địa phương.
Tuy nhiên, khi bước vào quá trình triển khai thực hiện, cả 2 dự án đối mặt với những thách thức lớn. Bên cạnh mô thức quản trị mới mà các tỉnh tham gia ban đầu còn lúng túng khi áp dụng, một thách thức nghiêm trọng khác mà các Dự án không lường trước được, đó là sự bùng phát của đại dịch COVIC-19, khiến các hoạt động không thể triển khai thực hiện trong thời gian dài.
Bên cạnh đó, một số thay đổi về cơ chế quản lý vốn ODA của Chính phủ cũng khiến tiến độ các Dự án phần nào chịu ảnh hưởng. Sự kết hợp của những yếu tố thách thức này đã khiến thời gian triển khai thực hiện trên thực tế của các Dự án rất ngắn (2 năm với Chương trình ADB và 3 năm với Dự án WB) so với thiết kế ban đầu (từ 5-6 năm).
Điều này dẫn tới nguy cơ phải chấm dứt hoạt động, hoàn trả lại toàn bộ vốn vay và vốn viện trợ không hoàn lại cho nhà tài trợ; hoặc phải kéo dài thời gian thực hiện tới 3 năm; hậu quả sẽ gây lãng phí rất lớn về tài chính, gây tác động tiêu cực có tính chất dây chuyền tới năng lực mạng lưới y tế cơ sở của các địa phương, gây ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng huy động nguồn hỗ trợ quốc tế cho ngành Y tế trong tương lai.
Theo bà Phan Lê Thu Hằng, trong bối cảnh đặc biệt khó khăn này, lãnh đạo Bộ Y tế, Ban Quản lý Dự án Trung ương cùng các địa phương tham gia Dự án WB và Chương trình ADB, đã có những quyết định quản trị dũng cảm và sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành, quản lý quá trình triển khai thực hiện.
Nhờ vậy, Dự án và Chương trình này đã được triển khai thực hiện vượt mức kỳ vọng, góp phần quan trọng hỗ trợ ngành Y tế thực hiện có hiệu quả những định hướng chiến lược quan trọng nhất của ngành Y (Nghị quyết 20 của Ban Chấp hành TW, Chỉ thị số 25 của Ban Bí thư, Nghị Quyết 72 của Bộ Chính trị), đồng thời là minh chứng thực tế khẳng định tính đúng đắn của định hướng phân cấp, phân quyền cho các địa phương.
“Những kết quả vượt kỳ vọng trong quá trình triển khai Dự án WB và Chương trình ADB trong bối cảnh đặc biệt thách thức trên cho thấy, để vượt qua những khó khăn tưởng chừng không vượt qua nổi, để đạt được những mục tiêu tưởng chừng như bất khả thi, chúng ta cần có tư duy vượt ngoài khuôn khổ lối mòn, sáng suốt lựa chọn, quyết tâm theo đuổi và thực hiện một cách linh hoạt những cách tiếp cận sáng tạo về quản trị cũng như về can thiệp kỹ thuật nhằm đẩy nhanh tiến độ và đảm bảo chất lượng các hoạt động dự án”, bà Phan Lê Thu Hằng nhấn mạnh.
Có thể nói, những nỗ lực trong thời gian qua nhằm đổi mới và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới đã trở thành minh chứng sống động cho sức mạnh thi đua yêu nước của ngành Y tế Việt Nam, từng bước kiến tạo nền tảng vững chắc (về tư duy, kỹ thuật và tài chính) cho y tế cơ sở, mang lại lợi ích thiết thực cho hàng triệu người dân vùng khó khăn.
Trong thời gian tới, theo PGS Phan Lê Thu Hằng, ngành y tế cần tiếp tục nỗ lực cao nhất để nâng cấp, phát triển mạng lưới y tế cơ sở theo tinh thần của Chỉ thị số 25 của Ban Bí thư và Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị, đặc biệt trong bối cảnh cả nước thực hiện mô hình quản lý 3 cấp (TƯ, tỉnh và xã).
Theo đó, cần ưu tiên hoàn thành sớm việc xây dựng, trình các cấp thẩm quyền phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035 để đưa Chương trình vào triển khai ngay trong năm 2026.
Làm việc từ ngày 20/10/2025, kỳ họp thứ X, Quốc hội thứ XV đã tiến hành nhiều nội dung quan trọng trong tuần đầu tiên, với điểm nhấn công tác nhân sự. Bước vào tuần làm việc thứ 2, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội dành 2 ngày để thảo luận phiên toàn thể tại hội trường về đánh giá tình hình phát triển KT-XH và ngân sách Nhà nước. Nội dung này được phát thanh, truyền hình trực tiếp để cử tri và Nhân dân cả nước quan tâm theo dõi.
Tại tuần làm việc đầu tiên, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan trình bày 2 Dự thảo Luật Dân số và Luật Phòng bệnh
Theo chương trình, ngày 27/10, Quốc hội sẽ thảo luận tại hội trường về 4 dự án luật, gồm: Luật Dẫn độ; Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự; Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.
Ngày 28/10, Quốc hội sẽ dành cả ngày để thảo luận tại hội trường về Báo cáo của Đoàn Giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
Ngày 29/10, Quốc hội thảo luận phiên toàn thể về: đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2025; dự kiến kế hoạch phát triển KT-XH năm 2026; kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021–2025 (phát triển KT-XH, cơ cấu lại nền kinh tế).
Bên cạnh đó, Quốc hội cũng thảo luận về Báo cáo của Chính phủ, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện KSND tối cao về việc ban hành văn bản điều chỉnh nội dung thuộc thẩm quyền của Quốc hội để xử lý các vấn đề phát sinh khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước.
Ngày 30/10, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về các nội dung trên đến 9 giờ 30 phút; thời gian còn lại, Quốc hội thảo luận về tình hình thực hiện NSNN năm 2025; dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2026; kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021–2025 (đầu tư công trung hạn, tài chính quốc gia, vay và trả nợ công); dự kiến các kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia và đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026–2030.
Các đại biểu Quốc hội tham gia kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV
Ngày 31/10, Quốc hội nghe Tờ trình và thẩm tra về 4 dự án Luật, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; Luật An ninh mạng; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh, trật tự;
Nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về 5 dự án Luật: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp; Luật An ninh mạng; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh, trật tự; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điều ước quốc tế; Nghe Tờ trình và thẩm tra về 3 dự án Luật: Luật Chuyển đổi số; Luật Công nghệ cao (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.
Các hoạt động lập pháp và giám sát sẽ tiếp tục được đẩy mạnh trong các tuần làm việc tiếp theo, kỳ vọng vào một Kỳ họp hiệu quả, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.