Mục Lục
Ngày 22/10/2025, Quốc hội thảo luận ở tổ về các dự án luật liên quan đến lĩnh vực giáo dục, gồm: Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi).
Tham gia thảo luận tại tổ 8, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đề xuất chính thức hóa việc đào tạo chuyên khoa đặc thù sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe, giao quyền quản lý đào tạo cho Bộ Y tế
Quang cảnh thảo luận tại Tổ 8 gồm Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan, trong Nghị quyết 72-NQ/TW ngày 9/9/2025 của Bộ Chính trị “Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân”nêu rõ “thực hiện đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ sau đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong lĩnh vực sức khỏe do Bộ Y tế quản lý”.
Thực tế hiện nay, Luật Giáo dục đại học năm 2018 cũng đã đề cập nội dung này và đề nghị là giao cho Chính phủ quy định cụ thể. Trên cơ sở đó Bộ Y tế đã xây dựng Nghị định để hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục đại học năm 2018. Tuy nhiên Nghị định này vẫn đang chờ để được thực hiện, sau khi Luật Giáo dục đại học được sửa đổi và trình Quốc hội thông qua tại cái kỳ họp thứ 10 này.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 72, Bộ Y tế đang xây dựng một nghị quyết có đề cập vấn đề đào tạo chuyên sâu đặc thù trong lĩnh vực y tế. Trong quá trình triển khai xây dựng, báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì có hai luồng ý kiến.
Ý kiến thứ nhất đề nghị đưa nội dung đào tạo chuyên sâu, đặc thù trong nghị quyết về lĩnh vực y tế.
Ý kiến thứ hai là cùng với việc sửa đổi một loạt các luật liên quan đến giáo dục đào tạo thì có thể đưa luôn vào các nội dung của luật sửa đổi.
Từ đề xuất này, góp ý cho Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đề nghị bổ sung “trình độ chuyên khoa vào hệ thống văn bằng sau đại học, giao quyền quản lý đào tạo này cho Bộ Y tế”.
Bộ trưởng cho biết ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, sau khi tốt nghiệp Bác sĩ hoặc Dược sĩ thì người học phải tiếp tục học chương trình đào tạo chuyên khoa để trên cơ sở đó mới được hành nghề độc lập ví dụ như là nội khoa, ngoại khoa, sản phụ khoa, nhi khoa, hồi sức cấp cứu… chứ không phải học 6 năm đại học ra là có thể được hành nghề ngay. Việc đào tạo chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe trên thế giới được tổ chức theo hướng phát triển năng lực hành nghề chuyên sâu và các chương trình đào tạo chuyên khoa tối thiểu là 3 năm và chủ yếu được đào tạo tại bệnh viện nơi học viên vừa học, vừa làm và chịu sự giám sát của các Bác sĩ hoặc chuyên gia có kinh nghiệm tức là học và học thực hành luôn. Khi hoàn thành thì người học được cấp văn bằng học chứng chỉ chuyên khoa và là điều kiện bắt buộc để cấp phép thực hành nghề chuyên môn. Như vậy có thể thấy việc tổ chức đào tạo chuyên khoa về y tế trong hệ thống giáo dục đào tạo sau đại học là đặc thù và chịu sự giám sát trực tiếp của cơ quan y tế hoặc hội đồng hành nghề y quốc gia nhằm đảm bảo người được đào tạo có năng lực hành nghề độc lập và đảm bảo an toàn cho người bệnh. Ví dụ như Hoa Kỳ thì được hội đồng kiểm định các chương trình giáo dục y khoa sau đại học là cơ quan kiểm định độc lập công nhận. Các mô hình khác cũng đều có sự phối hợp của cơ quan hoạch định chính sách, năng lực chuẩn quốc gia như là Bộ Y tế, của Hội đồng hành nghề y, tổ chức kiểm định độc lập và cơ sở đào tạo ở các bệnh viện thực hành.
Còn tại Việt Nam trong hơn 50 năm qua triển khai đào tạo chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe theo ba hình thức: Chuyên khoa I, Chuyên khoa II và Bác sĩ nội trú với khoảng 7000 Bác sĩ chuyên khoa mỗi năm đã được đào tạo để cung cấp cho hệ thống các bệnh viện. Tuy nhiên hoạt động đào tạo chuyên khoa lại chưa thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, không nằm trong các văn bản của luật giáo dục và luật giáo dục đại học, dẫn đến thiếu cơ sở pháp lý cho công tác đào tạo chuyên khoa và bác sĩ nội trú. Chính vì vậy việc cụ thể hóa nội dung “thực hiện đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ sau đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong lĩnh vực sức khỏe do Bộ Y tế quản lý” trong Nghị quyết 72 vào Luật giáo dục và Luật giáo dục đại học là cần thiết.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đóng góp ý kiến cho Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi)
Bộ trưởng Đào Hồng Lan cũng đề xuất bổ sung sửa đổi một số điều khoản cụ thể như: với Dự thảo Luật giáo dục sửa đổi, tại khoản 3 điều 1, cần chỉnh sửa như sau “Chính phủ quy định cụ thể về quản lý văn bằng chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân, văn bằng trình độ của một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù”. Tại khoản 11, điều 1 dự thảo luật, ngoài đào tạo trình độ Thạc sĩ, trình độ Tiến sĩ thì bổ sung thêm một mục C là đào tạo trình độ chuyên khoa dành cho người học có trình độ từ đại học trở lên một số ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe.
Về công tác quản lý nhà nước, dự thảo luật quy định “Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình chịu trách nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục”, trong đó Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về đào tạo chuyên khoa và chuyên khoa sâu trong lĩnh vực y tế, đề nghị bổ sung nội dung “Các cơ quan trong phạm vi trách nhiệm quyền hạn của mình có trách nhiệm nghiên cứu dự báo nhu cầu nhân lực của ngành lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý, phối hợp với Bộ Giáo dục đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục”.
Tại khoản 2 điều 8 về mục tiêu đào tạo, chương trình, văn bằng, Bộ trưởng Đào Hồng Lan đề nghị bổ sung thêm điểm D: “chương trình đào tạo chuyên sâu trình độ sau đại học một số ngành trong lĩnh vực sức khỏe để cấp văn bằng chuyên khoa theo quy định của Bộ Y tế”.
Tại điều 22 về chuẩn chương trình đào tạo, đề nghị bổ sung khoản 4: “Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành chuẩn chương trình đào tạo, hướng dẫn việc xây dựng, rà soát, đánh giá, giám sát thực hiện việc chuẩn chương trình đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe”.
Tại điều 23 về xây dựng phát triển chương trình đào tạo, đề nghị bổ sung khoản 5: “Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành danh mục thống kê đào tạo quy định quy trình xây dựng thẩm định và ban hành chương trình đào tạo. Quy trình phê duyệt, điều chỉnh, chấm dứt và thực hiện chương trình đào tạo chuyên qua trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe.
Tại khoản 2 điều 24 về tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, đề nghị bổ sung thêm khoản 2: “Bộ trưởng Bộ Y tế phê duyệt thực hiện chương trình đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe”.
Tại điều 25 về vấn đề tuyển sinh cũng bổ sung thêm nội dung trách nhiệm của Bộ Y tế ban hành quy chế tuyển sinh đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe.
Tại điều 26 về tổ chức đào tạo các cấp văn bằng chứng chỉ, đề nghị bổ sung khoản 9: “Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quy định đào tạo chuyên khoa trình độ sau đại học trong lĩnh vực sức khỏe”.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan cũng đề xuất cho phép viên chức của bệnh viện công lập là cơ sở đào tạo thực hành trong các lĩnh vực sức khỏe được giao nhiệm vụ giảng dạy giáo dục như giảng viên cơ hữu tại các cơ sở giáo dục công lập. Bởi hầu hết các Bác sĩ giỏi của các bệnh viện đều là giảng viên thực hành hoặc là phụ trách các chuyên khoa của các đại học y và hệ thống đại học của cả nước. Nếu không có quy định cho phép thì sẽ dẫn đến thiếu đội ngũ giảng viên thực hành tại các cơ sở giáo dục.
Tại phần thảo luận về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), đại biểu Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Tri Thức (đoàn TP.HCM) cho biết ông hiện được phân công phụ trách lĩnh vực các trường đại học y khoa tại Bộ Y tế, đồng thời có hơn 20 năm làm bác sĩ và giảng dạy sinh viên y khoa. “Tôi xin phát biểu với tất cả tâm huyết và kinh nghiệm thực tiễn của ngành y,” ông mở đầu.
‘Bộ Y tế không muốn giành việc của ai’
Theo ông Thức, ngành y có hệ thống đào tạo chuyên sâu riêng, gồm bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I và chuyên khoa II. Hiện nay lực lượng bác sĩ thuộc các chương trình này chiếm khoảng 2/3 nhân lực trình độ sau đại học trong ngành y.
Các chương trình này đã tồn tại từ thập niên 1970, theo mô hình của Pháp, và hiện nay được hơn 50 quốc gia công nhận. Ở Việt Nam, hệ thống này phát triển song song với đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, trong đó thạc sĩ – tiến sĩ thiên về nghiên cứu học thuật, còn chuyên khoa I, II và nội trú thiên về thực hành lâm sàng.
Đại biểu Nguyễn Tri Thức thảo luận về dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) chiều 22-10.
“Tại các bệnh viện, phần lớn bác sĩ theo học chuyên khoa I, II; còn tại các trường đại học, giảng viên chủ yếu là thạc sĩ, tiến sĩ. Hai hướng này bổ sung cho nhau, không thể nói tiến sĩ giỏi hơn chuyên khoa II, hay thạc sĩ giỏi hơn chuyên khoa I. Một bên tập trung vào nghiên cứu học thuật, một bên chú trọng vào thực hành”, ông nhấn mạnh, đồng thời dẫn chứng tại các bệnh viện, phần lớn bác sĩ theo học chuyên khoa I, chuyên khoa II, còn tại các trường đại học thì đa số giảng viên là thạc sĩ, tiến sĩ.
Đại biểu cho biết, do trong thời gian dài, các văn bằng bác sĩ chuyên khoa và nội trú chưa được công nhận chính thức trong hệ thống văn bằng quốc gia, nên đã phát sinh nhiều bất cập cần được xem xét, điều chỉnh trong lần sửa đổi luật này.
Vì lẽ đó, ngày 9-9-2025, khi ban hành Nghị quyết số 72 của Bộ Chính trị, trong Nghị quyết này có ghi một câu rất rõ: “Thực hiện đào tạo chuyên sâu, đặc thù trình độ sau đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”.
Điều đó có nghĩa là Bộ Chính trị đã chính thức công nhận đây là một bộ phận thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, bởi lẽ ngành y là một lĩnh vực đào tạo đặc thù, tồn tại khách quan và có đóng góp rất lớn cho ngành y tế nước ta từ trước tới nay – thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong lĩnh vực sức khỏe, do Bộ Y tế quản lý. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) lần này, không thấy một chữ nào nhắc đến ‘Bộ Y tế’.
“Điều tôi nhận thấy là toàn bộ hệ thống giáo dục y tế trong dự thảo này đều do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Theo tôi, không biết dùng từ gì cho đúng nếu thực sự điều này xảy ra”, ông bày tỏ. Đồng thời nhấn mạnh, Bộ Y tế không hề muốn ‘giành việc’ của ai. Ngành y vốn đã rất vất vả. Vấn đề ở đây là tính đặc thù khách quan của lĩnh vực y tế – một ngành thực hành, không thể tách khỏi bệnh viện.
Ngành y là khoa học thực hành, không thể tách rời bệnh viện
Theo đại biểu, đào tạo bác sĩ phải gắn chặt với bệnh viện và người bệnh. “Càng ngồi giảng đường nhiều bao nhiêu, bác sĩ càng dở bấy nhiêu. Một bác sĩ giỏi phải học từ bệnh nhân, coi bệnh nhân là người thầy của mình,” ông chia sẻ.
Ông dẫn chứng: sinh viên y khoa ngay từ năm thứ nhất đã đi thực tập, và suốt sáu năm học, 2/3 thời gian ở bệnh viện, chỉ 1/3 ở giảng đường. Mỗi trường y đều có bệnh viện thực hành bắt buộc – như Đại học Y Dược TP.HCM gắn với Bệnh viện Chợ Rẫy, Đại học Y Hà Nội gắn với Bệnh viện Bạch Mai.
“Vì vậy, nếu Luật sửa đổi vẫn quy định toàn bộ hệ thống giáo dục y tế do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, tôi thật sự không hiểu Bộ sẽ quản lý thế nào với lĩnh vực có tính chuyên môn sâu như ngành y,” đại biểu nêu ý kiến.
Đại biểu cũng đánh giá, hiện nay, hệ thống đào tạo y khoa đang phân tán, các trường cao đẳng điều dưỡng trước đây do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp phép; Trường đại học y tư thục do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Bộ Y tế chỉ trực tiếp quản lý 11 trường đại học y công lập trên toàn quốc.
“Tình trạng mỗi bộ quản lý một kiểu khiến chất lượng đào tạo không đồng đều, trong khi Bộ Y tế lại phải sử dụng nhân lực do các nơi khác đào tạo,” ông Thức nêu thực tế.
Từ thực tiễn đó, đại biểu Nguyễn Tri Thức cho rằng cần giữ nguyên các trường đào tạo khối ngành sức khỏe thuộc sự quản lý của Bộ Y tế, vì điều đó phù hợp với lịch sử, thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế.
“Chỉ có Bộ Y tế mới nắm rõ được nhu cầu nhân lực, số lượng bác sĩ từng chuyên khoa, cũng như điều phối được nguồn lực y tế giữa các vùng. Nếu chuyển toàn bộ về Bộ Giáo dục, đây sẽ là vấn đề rất nghiêm trọng đối với ngành y Việt Nam, chứ không phải là một việc đơn giản về mặt tổ chức hay hành chính.” ông Thức cho biết.
Facebook Comment