Phát triển dược liệu vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ giúp bảo tồn nguồn gen quý hiếm, mà còn tạo động lực cho kinh tế địa phương, mở rộng chuỗi giá trị cây thuốc Việt vươn ra thế giới.
Những vùng dược liệu chủ lực hình thành trên khắp cả nước
Theo PGS.TS Phạm Thanh Huyền – Giám đốc Trung tâm Tài nguyên Dược liệu (Viện Dược liệu, Bộ Y tế), Việt Nam hiện có hơn 5.000 loài cây thuốc, trong đó nhiều loài có giá trị kinh tế cao, đóng góp lớn cho phát triển kinh tế – xã hội.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chương trình, chiến lược thúc đẩy phát triển dược liệu. Sau hơn 10 năm triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu Việt Nam đến năm 2030, các vùng trồng chủ lực đã hình thành trên khắp cả nước.
Tại vùng Tây Bắc, nổi bật có Đương quy, Tam thất, Actiso, Sâm Lai Châu, Bảy lá một hoa, Chè dây, Hoàng tinh, Tục đoạn, Ngũ gia bì gai, Hà thủ ô đỏ, Đảng sâm Việt Nam, Quế, Hồi, Giảo cổ lam…
Vùng Đông Bắc phát triển các cây Hà thủ ô đỏ, Đinh lăng, Củ mài, Kim tiền thảo, Bạch chỉ, Quế, Giảo cổ lam, Sâm nam núi Dành…
Đồng bằng sông Hồng tập trung Ngưu tất, Kim tiền thảo, Diệp hạ châu, Đinh lăng, Dây thìa canh, Cà gai leo, Xuyên tâm liên…
Bắc Trung Bộ có Gừng, Nghệ, Chè vằng, Hy thiêm, Thiên niên kiện, Náng, Quế…
Tây Nguyên nổi bật với Sâm Ngọc Linh, Đảng sâm Việt Nam, Ngũ vị tử, Sơn tra, Giảo cổ lam…
Trong khi đó, Đông Nam Bộ phát triển Trinh nữ hoàng cung, An xoa, Xáo tam phân – những cây thuốc bản địa có giá trị cao.
Việc phát triển các sản phẩm dược liệu đặc trưng vùng miền đã từng bước hình thành các chuỗi giá trị dược liệu tập trung, mang lại giá trị kinh tế lớn, tạo việc làm và đóng góp thiết thực cho công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Người dân và các ông lang, bà mế tìm hiểu kỹ thuật trồng, nhận biết cây thuốc trong rừng
Tiêu chuẩn GACP-WHO nâng chất lượng và uy tín cây thuốc Việt
Theo PGS.TS Phạm Thanh Huyền, việc áp dụng tiêu chuẩn GACP-WHO (Thực hành tốt nuôi trồng và thu hái cây thuốc theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới) là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng và giá trị xuất khẩu dược liệu Việt Nam.
Một số doanh nghiệp, hợp tác xã đã chủ động đầu tư vào khâu sản xuất từng bước đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu
Các tiêu chuẩn này bao gồm kiểm soát từ giống cây, quy trình kỹ thuật, quản lý đất – nước, đến thu hái và bảo quản. Dược liệu đạt chuẩn GACP-WHO có chất lượng ổn định, an toàn và đủ tiêu chuẩn làm nguyên liệu sản xuất thuốc, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn hướng tới thị trường quốc tế.
Liên kết “bốn nhà” vẫn là mắt xích cần củng cố
Sau khi Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu được ban hành năm 2013, mô hình liên kết giữa “bốn nhà”: quản lý – khoa học – doanh nghiệp – người dân đã được tăng cường. Tuy nhiên, sự kết nối này vẫn chưa thật sự đồng bộ.
PGS.TS Phạm Thanh Huyền cho rằng, điểm yếu nằm ở khâu sơ chế và chế biến – yếu tố quyết định chất lượng và giá thành. Dù nhiều cơ sở đã ứng dụng khoa học công nghệ, nhưng Việt Nam vẫn chưa có hệ thống chế biến dược liệu quy mô lớn, đủ sức cung ứng cho thị trường và xuất khẩu.
“Việc kết nối thông tin giữa các bên còn hạn chế. Cần xác định rõ dược liệu chủ lực của từng vùng, đồng thời làm chủ công nghệ chế biến để chủ động nguồn cung và kế hoạch sản xuất,” bà Huyền nhấn mạnh.
Hoạt động đào tạo giúp gìn giữ tri thức bản địa và nâng cao kỹ năng trồng, chế biến cây thuốc cho các “ông lang, bà mế” vùng cao
Chính sách và sự hỗ trợ quốc tế thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị
Những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình và kế hoạch phát triển dược liệu, hỗ trợ về vốn, giống, thuê đất… Dược liệu được đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia và triển khai ở nhiều địa phương, giúp tăng cường sự liên kết giữa 4 nhà, hình thành chuỗi giá trị bền vững, mang lại việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân.
Cùng với đó, nhiều tổ chức quốc tế đã đầu tư kinh phí cho công tác bảo tồn, xây dựng mô hình trồng dược liệu, hoàn thiện công nghệ chế biến và phát triển sản phẩm. Nhờ vậy, hàng nghìn sản phẩm OCOP đặc trưng vùng miền đã được hình thành, nhiều sản phẩm dược liệu chất lượng cao có chỗ đứng vững chắc trong nước và bước đầu xuất khẩu ra nước ngoài.
Thông qua các chương trình hỗ trợ, nhiều bài thuốc và loài cây quý hiếm được bảo tồn, phát huy giá trị, góp phần khẳng định thương hiệu cây thuốc Việt trên thị trường.
Mô hình trồng cây dược liệu trong nhà lưới tại Sapa, Lào Cai
Bảo tồn nguồn gen quý, gìn giữ tri thức bản địa
Phát triển chuỗi vùng trồng – sản xuất dược liệu không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần quan trọng vào bảo tồn đa dạng sinh học và nguồn gen quý hiếm. Việc hình thành các vùng trồng chuyên canh, trồng xen dưới tán rừng giúp phủ xanh đất trống, cải tạo đất, chống xói mòn, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.
PGS.TS Phạm Thanh Huyền khẳng định: “Phát triển dược liệu là con đường để gìn giữ tri thức bản địa, đồng thời tạo sinh kế bền vững cho đồng bào vùng cao – nơi lưu giữ kho tàng cây thuốc quý của dân tộc.”
Hội nghị khoa học phục hồi chức năng toàn quốc năm 2025 có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, với 12 phiên chuyên đề quy tụ nhiều báo cáo khoa học chất lượng cao trong và ngoài nước.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trọng Hải, Chủ tịch Hội Phục hồi chức năng Việt Nam phát biểu tại hội nghị.
Sáng 17/10/2025, Hội Phục hồi chức năng Việt Nam (Vinareha) tổ chức Hội nghị khoa học phục hồi chức năng toàn quốc năm 2025 tại Thanh Hóa. Hội nghị quy tụ khoảng 650 đại biểu, trong đó có 6 chuyên gia quốc tế đến từ Hàn Quốc, Thái Lan và Nhật Bản.
Phát biểu khai mạc, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trọng Hải, Chủ tịch Hội Phục hồi chức năng Việt Nam cho biết, từ những năm tháng còn thiếu thốn về nhân lực và cơ sở vật chất, đến nay chuyên ngành phục hồi chức năng đã có một mạng lưới rộng khắp, với hàng trăm trung tâm, khoa, bệnh viện chuyên sâu.
Bên cạnh những chuyên gia đầu ngành đầy tâm huyết, lực lượng trẻ trong ngành đang ngày càng trưởng thành, năng động và sáng tạo hơn bao giờ hết. Nhiều bạn trẻ đã không ngại thử nghiệm, sáng tạo, đưa công nghệ vào từng buổi trị liệu, từng kế hoạch chăm sóc bệnh nhân, góp phần làm mới diện mạo của phục hồi chức năng Việt Nam hôm nay.
Tiến sĩ Vương Ánh Dương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Bộ Y tế phát biểu.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang dần trở thành một phần không thể tách rời của phục hồi chức năng. Hiện nay, nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng đã bắt đầu ứng dụng AI trong đánh giá chức năng vận động, trong thiết kế bài tập cá nhân hóa, và theo dõi tiến trình điều trị từ xa.
Các hệ thống cảm biến, robot hỗ trợ phục hồi và phần mềm theo dõi tự động không còn là tương lai xa mà chúng đang hiện hữu trong chính những phòng tập trị liệu, giúp bác sĩ và kỹ thuật viên hiểu rõ hơn cơ thể người bệnh, tối ưu hóa bài tập và rút ngắn quá trình hồi phục.
Tại hội nghị, Tiến sĩ Vương Ánh Dương, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, Bộ Y tế cho biết, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ: Phục hồi chức năng là lĩnh vực ngày càng được quan tâm của Chính phủ, Bộ Y tế, các bộ, ngành và chính quyền địa phương.
Tiến sĩ Dương nhấn mạnh, phục hồi chức năng là một trong các lĩnh vực không thể thiếu của hệ thống y tế hoàn chỉnh. Vì thế, cần duy trì và phát triển mạng lưới phục hồi chức năng phù hợp với quy hoạch hệ thống y tế, điều kiện kinh tế, xã hội và tiến tới ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Đồng thời, phát triển dịch vụ phục hồi chức năng trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở trợ giúp xã hội, cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng thương binh, người có công với cách mạng và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng.
Hội nghị ghi nhận 70 báo cáo khoa học được trình bày, cùng với 4 workshop, 3 phiên chuyên đề, 2 phiên vệ tinh và 12 phiên chuyên sâu.
Nhiều chủ đề mang tính tiên phong và cập nhật đã được trình bày, như: Ứng dụng robot trong phục hồi chức năng; tiếp cận đa ngành trong điều trị đau mạn tính; quản lý tiểu không tự chủ; tiến bộ trong phẫu thuật cột sống ít xâm lấn và tác động phục hồi chức năng sau phẫu thuật.
Hội nghị quy tụ khoảng 650 đại biểu chính thức tham dự, trong đó có 6 chuyên gia về phục hồi chức năng quốc tế đến từ Hàn Quốc, Thái Lan và Nhật Bản.
Chia sẻ những thách thức và hướng phát triển phục hồi chức năng trong thời gian tới, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trọng Hải cho biết, nhân lực phục hồi chức năng còn thiếu ở một số chuyên ngành, cơ sở vật chất chưa đồng đều giữa các vùng miền, và đặc biệt là nhận thức xã hội về vai trò của phục hồi chức năng vẫn cần được nâng cao hơn nữa.
Để khắc phục những khó khăn này, Hội Phục hồi chức năng Việt Nam sẽ tiếp tục đồng hành cùng các cơ sở, trường đào tạo và tổ chức quốc tế, tập trung vào 3 định hướng trọng tâm: Phát triển mạng lưới phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, bảo đảm mọi người dân, đặc biệt người khuyết tật, người cao tuổi, người nghèo đều được tiếp cận dịch vụ.
Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng đào tạo, chuẩn hóa nhân lực, mở rộng hợp tác quốc tế, khuyến khích nghiên cứu và đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ, trong đó AI, robot, và các nền tảng số để hiện đại hóa hoạt động điều trị, quản lý và kết nối bệnh nhân.
Tỉnh Thái Nguyên bị bão số 11 gây lũ lụt đặc biệt lớn, trên diện rộng, rất nhiều nơi bị ngập sâu, rác thải, bùn đất, động vật chết vương vãi khắp nơi, rất dễ phát sinh dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm sau lũ lụt. Ngăn ngừa vấn đề này, ngành y tế tỉnh Thái Nguyên đã chủ động vệ sinh môi trường, phun hóa chất tiêu động, khử trùng.
Những nơi có nguy cơ phát sinh dịch bệnh đều được ngành y tế Thái Nguyên phun hóa chất khử khuẩn.
Tiến sĩ Đặng Ngọc Huy, Giám đốc Sở Y tế Thái Nguyên khẳng định: “Mặc dù lũ lụt chưa từng có, ngập sâu, trên diện rộng, lâu ngày, nhưng với phương châm ‘nước rút đến đâu, vệ sinh môi trường đến đấy’, thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, phun hóa chất tiêu độc, khử trùng nên đến thời điểm này, sau hơn một tuần lũ rút, toàn tỉnh không có dịch bệnh phát sinh, sức khỏe cộng đồng được bảo vệ”.
Những ngày trong và sau lũ lụt, Sở Y tế Thái Nguyên đã ban hành hàng chục văn bản, cử nhiều đoàn công tác đến các địa phương chỉ đạo duy trì, khôi phục khám, chữa bệnh cho nhân dân, đặc biệt là coi trọng vệ sinh môi trường sau lũ để ngăn ngừa dịch bệnh phát sinh.
Các trường học bị lũ lụt đều được phun khử khuẩn.
Toàn ngành y tế Thái Nguyên phối hợp chặt chẽ với các lực lượng công an, quân đội, các đoàn trợ giúp của các đơn vị y tế ngoài tỉnh để vệ sinh nguồn nước, khử khuẩn môi trường nhằm ngăn chặn các ổ dịch phát sinh, đặc biệt coi trọng khử khuẩn ở những nơi tập trung đông người, chợ, trường học, bãi rác, nơi nước lũ ngập sâu, lâu ngày.
Anh Lý Văn Sáu ở xóm Gốc Thị, xã Nam Hòa cho biết: “Ngay sau khi chúng tôi thông tin tại địa phương có một số người bị ngứa chân, tay, lãnh đạo Sở Y tế đã trực tiếp đến kiểm tra, yêu cầu Trung tâm Y tế Đồng Hỷ, Trạm Y tế xã Nam Hòa thực hiện ngay việc phun khử khuẩn môi trường, cấp thuốc điều trị ngay cho người dân bị ảnh hưởng bởi ngập lụt”.
Những ngày vừa qua, Sở Y tế Thái Nguyên huy động 3 xe ô-tô chuyên dùng, hàng trăm bình phun khử khuẩn ở hầu hết các vị trí có nguy cơ và nguy cơ cao với tổng diện tích khoảng hơn 1,5 triệu m2 bề mặt; cấp phát và hướng dẫn người dân sử dụng gần 72 nghìn viên Aquatab để khử khuẩn nguồn nước sinh hoạt bị ngập.
Khi lũ rút, lực lượng công an, quân đội huy động hàng vạn cán bộ, chiến sĩ tỏa đi các khu vực, các tuyến phố, khu dân cư để nạo vét bùn đất, thu gom rác thải. Bùn đất, rác thải được thu gom đến đâu, hầu hết được chở đến nơi tập kết đến đó nên đã hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng ùn ứ, mất vệ sinh và mất mỹ quan.
Sau lũ lụt, người dân, các lực lượng công an, quân đội được huy động thu dọn nhà ở bị ngập, vệ sinh môi trường dễ dẫn phải đinh, dị vật sắc nhọn, chân tay sứt xát trong nước lũ ô nhiễm, có nguy cơ nhiễm trùng uốn ván nên Sở Y tế Thái Nguyên chủ động đề nghị Bộ Y tế cấp 10 nghìn liều vaccine phòng uốn ván và 10 nghìn liều huyết thanh kháng uốn ván để tiêm phòng miễn phí cho nhân dân.
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên tiêm vaccine phòng uốn ván miễn phí cho người dân.
Xác định nhu cầu còn rất lớn nên gần đây, Sở Y tế Thái Nguyên đề nghị Bộ Y tế cấp thêm 30 nghìn liều huyết thanh kháng uốn ván để tiêm miễn phí nhằm giảm gánh nặng kinh tế cho người dân sau lũ lụt.
Mặc dù đến thời điểm này không có ổ dịch nào phát sinh trên địa bàn tỉnh, nhưng với tinh thần không chủ quan, những ngày tới Sở Y tế Thái Nguyên tiếp tục chỉ đạo, vận động, hướng dẫn nhân dân, cán bộ vệ sinh môi trường, công sở, hộ gia đình để đề phòng dịch bệnh. Duy trì phun khử khuẩn các khu vực công cộng, trong khu công nghiệp, chợ, nơi đông dân cư, các tuyến đường lớn, các bệnh viện, trường học bị ngập.
Sở Y tế Thái Nguyên khuyến cáo, người dân dẫm phải đinh, vật sắc nhọn, vết thương trầy xát trong khi tiếp xúc với lũ lụt thì cần đến bác sĩ để được tư vấn, tiêm phòng uốn ván để bảo vệ tính mạng. Đồng thời người dân cần coi trọng an toàn vệ sinh thực phẩm, ăn chín, uống sôi để bảo vệ sức khỏe; có vấn đề bất thường về sức khỏe cần báo cho cơ sở y tế gần nhất để được xử lý kịp thời.
Trước đây, suy thận mạn thường được xem là “căn bệnh của người cao tuổi”. Tuy nhiên, vài năm gần đây, các bác sĩ ghi nhận xu hướng đáng lo ngại: Bệnh thận đang ngày càng “trẻ hóa”, nhiều người mới ngoài đôi mươi đã phải chạy thận định kỳ.
Một bệnh nhân trẻ đang điều trị suy thận tại Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu (Bệnh viện Bạch Mai). Ảnh: Ngọc Bảo
Nguy cơ âm thầm, hậu quả khôn lường
Theo thống kê mới nhất của Bộ Y tế, Việt Nam hiện có hơn 10 triệu người mắc bệnh thận mạn, trong đó khoảng 26.000 bệnh nhân đã bước vào giai đoạn cuối, cần lọc máu định kỳ hoặc ghép thận để duy trì sự sống. Đáng lo ngại hơn, tỉ lệ người trẻ mắc bệnh đang tăng nhanh.
Những năm gần đây, Trung tâm Thận – Tiết niệu và Lọc máu (Bệnh viện Bạch Mai) ghi nhận từ 30 – 40 ca suy thận mới mỗi ngày, trong đó không ít trường hợp dưới 30 tuổi, ở độ tuổi lao động sung sức nhất. Thậm chí, bệnh nhân chỉ mới 15 – 16 tuổi khi được chẩn đoán mắc bệnh thận mạn thì đã ở vào giai đoạn cuối.
Anh Nguyễn Hoàng (26 tuổi, Hà Nội) chia sẻ: “Tôi làm công việc lập trình viên, phát triển web nên thường xuyên phải thức đêm, làm việc với máy tính khoảng 8 – 10 tiếng/ngày. Do tính chất công việc quá bận rộn nên bữa tối tôi cũng thường sử dụng thức ăn nhanh, mì tôm và uống các loại nước ngọt có gas… Đến đầu năm 2025, dù mới chỉ bước sang tuổi 26, tôi đã thường xuyên cảm thấy cơ thể mệt mỏi, sút cân nhanh, da sạm đen, đi khám tôi rất sốc khi biết mình đã mắc suy thận mạn giai đoạn cuối… Hiện tại tôi cần lọc máu ba lần mỗi tuần, mỗi lần kéo dài 3 – 4 giờ, tương lai không biết sẽ ra sao khi phải liên tục đến bệnh viện, tốn kém nhiều tiền bạc để chạy chữa, cuộc sống vô cùng bế tắc”.
Suy thận mạn là tình trạng chức năng thận suy giảm kéo dài, khiến cơ thể không còn khả năng lọc bỏ độc tố, cân bằng nước và điện giải. Bệnh tiến triển âm thầm, có thể kéo dài nhiều năm mà không biểu hiện rõ ràng.
Tương tự trường hợp của anh Hoàng, nhiều người trẻ thường chủ quan với sức khỏe, cho rằng các bệnh mạn tính chỉ xuất hiện khi cơ thể bước vào tuổi trung niên hoặc giai đoạn lão hóa. Những dấu hiệu ban đầu như mệt mỏi, chán ăn, đi tiểu nhiều về đêm, phù nhẹ ở chân hoặc quanh mắt… thường bị xem nhẹ hoặc cho là do thiếu ngủ hay làm việc quá sức. Chính vì sự chủ quan, lối sống thiếu khoa học, không duy trì khám sức khỏe định kỳ, khiến nhiều người phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn muộn, mất đi cơ hội điều trị bảo tồn.
Cảnh báo từ lối sống thiếu lành mạnh
PGS.TS Lê Đình Khánh, Chủ tịch Hội Tiết niệu – Thận học Việt Nam, cho biết: “Việt Nam đang đối mặt với tình trạng nhiều bệnh lý mạn tính bị “trẻ hóa”, không chỉ riêng bệnh suy thận. Đáng lo ngại là nhiều bạn trẻ chỉ phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn cuối. Trong nhóm bệnh nhân trẻ hiện nay, phần lớn không có tiền sử gia đình mắc bệnh thận, mà nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ lối sống thiếu lành mạnh.
Theo PGS.TS Lê Đình Khánh, sự “trẻ hóa” này xuất phát từ chính những thay đổi trong xã hội hiện đại. Nhịp sống nhanh khiến con người ngày càng phụ thuộc vào thức ăn chế biến sẵn, đồ uống có cồn, chất kích thích; đồng thời ít vận động, thường xuyên thức khuya và căng thẳng kéo dài. Cơ thể phải hoạt động trong trạng thái quá tải, đặc biệt là thận – cơ quan đảm nhiệm chức năng lọc và thải độc. Lâu dần, thận bị tổn thương mà không được phát hiện kịp thời; đến khi nhận ra thì bệnh đã ở giai đoạn muộn.
Khi đã mắc suy thận mạn, người bệnh phải đối mặt với quá trình điều trị kéo dài và tốn kém. Ở giai đoạn cuối, bệnh nhân phải lọc máu ba lần mỗi tuần, mỗi lần kéo dài từ ba đến bốn giờ. Cơ thể thường xuyên mệt mỏi, sức lao động giảm sút, người trẻ buộc phải từ bỏ công việc, học tập và phụ thuộc vào gia đình. Những cơn chuột rút, ngứa ngáy, phù nề, tăng huyết áp, rối loạn tiêu hóa, thiếu máu… trở thành nỗi ám ảnh thường trực.
Chi phí điều trị cho một bệnh nhân chạy thận định kỳ có thể lên tới hàng chục triệu đồng mỗi tháng; còn nếu ghép thận, chi phí ban đầu có thể lên đến hàng trăm triệu đồng, chưa kể tiền thuốc ức chế miễn dịch phải dùng suốt đời.
Không chỉ mang gánh nặng tài chính, bệnh suy thận còn khiến nhiều người trẻ mất đi tương lai, cơ hội lập gia đình và làm việc. Nhiều bạn trẻ ở độ tuổi đầy hoài bão, đang cống hiến cho sự nghiệp, nay phải “làm bạn” với máy lọc máu và căn phòng bệnh viện trắng toát, lạnh lẽo mỗi tuần.
Sự “trẻ hóa” của bệnh suy thận cũng đặt ra thách thức lớn cho hệ thống y tế. Số người cần lọc máu và ghép thận ngày càng tăng, trong khi nguồn thận hiến lại rất hạn chế. Gánh nặng y tế và kinh tế – xã hội vì thế ngày càng lớn, đặc biệt khi bệnh nhân thuộc nhóm tuổi lao động – lực lượng đóng góp chính cho xã hội.
Do đó, các bác sĩ khuyến cáo, chỉ cần thực hiện xét nghiệm máu đo creatinine, tính toán chỉ số lọc cầu thận (eGFR) hoặc xét nghiệm nước tiểu tìm protein, đã có thể phát hiện sớm rối loạn chức năng thận. Việc tầm soát định kỳ, nhất là với người có bệnh nền hoặc lối sống ít vận động, là biện pháp hữu hiệu để phát hiện sớm và can thiệp kịp thời.
Ngoài ra, để ngăn chặn xu hướng “trẻ hóa” của bệnh thận, điều quan trọng nhất là thay đổi lối sống và nâng cao ý thức phòng bệnh. Cơ thể cần được nghỉ ngơi, vận động hợp lý, ăn uống cân bằng; hạn chế muối, giảm thực phẩm chế biến sẵn. Đồng thời, cần kiểm soát cân nặng, duy trì huyết áp ổn định, hạn chế rượu, bia và thuốc lá – những bước cơ bản nhưng mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc bảo vệ thận.
Về phía hệ thống y tế, các chuyên gia đề xuất mở rộng chương trình tầm soát bệnh thận cho người trẻ, lồng ghép xét nghiệm chức năng thận trong các gói khám sức khỏe định kỳ. Công tác tuyên truyền về sức khỏe thận cũng cần được đẩy mạnh tại trường học, nơi làm việc, giúp mỗi người hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của việc duy trì một quả thận khỏe mạnh.
Bởi suy thận mạn không đến trong một sớm một chiều, mà là hệ quả tích tụ của lối sống thiếu lành mạnh, của sự thờ ơ với sức khỏe và niềm tin sai lầm rằng “còn trẻ thì chưa sao”. Giữ cho thận khỏe không phải là điều xa vời – chỉ cần bắt đầu từ những thay đổi nhỏ hôm nay, mỗi người đã góp phần bảo vệ thận, gìn giữ tuổi trẻ và tương lai của chính mình.
Nghị quyết số 72-NQ/TW về “Một số giải pháp tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới” là văn kiện có ý nghĩa chiến lược đặc biệt, thể hiện tư duy nhân văn sâu sắc và tầm nhìn khoa học của Đảng ta về phát triển con người Việt Nam toàn diện.
Ngày 9 tháng 9 năm 2025, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 72-NQ/TW về “Một số giải pháp tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới.”
Nghị quyết số 72- NQ/TW lấy sức khỏe Nhân dân làm trung tâm, làm mục tiêu, đồng thời là động lực của sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới; với quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: “Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là nền tảng quan trọng nhất cho hạnh phúc của mỗi người, cho sự tồn vong của dân tộc và sự phát triển thịnh vượng, bền vững của đất nước. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân là mục tiêu, là động lực, là nhiệm vụ chính trị hàng đầu, giữ vị trí ưu tiên trong các chiến lược, chính sách phát triển; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và của mỗi người dân.”
TTND.PGS.TS.Trần Qúy Tường (người ngồi, thứ 2 từ trái sang) trong lần thẩm định bệnh án điện tử tại BV Sơn Tây, Hà Nội. Ảnh: D.T
Trên nền tảng tư tưởng đó, Nghị quyết số 72-NQ/TW đã xác định 5 nhóm mục tiêu trọng tâm đến năm 2030, trong đó mục tiêu đầu tiên – đồng thời cũng là mục tiêu cốt lõi – là nâng cao thể lực, trí lực, tầm vóc và tuổi thọ khỏe mạnh của Nhân dân Việt Nam.
Cụ thể, đến năm 2030, phấn đấu tăng chiều cao trung bình của trẻ em và thanh thiếu niên từ 1–18 tuổi thêm tối thiểu 1,5 cm; nâng tuổi thọ trung bình của người Việt lên 75,5 tuổi, trong đó số năm sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm. Đến năm 2045, hướng tới tuổi thọ trung bình trên 80 tuổi, các chỉ số y tế thiết yếu ngang tầm với các quốc gia phát triển trong khu vực.
Để hiện thực hóa các mục tiêu đó, Nghị quyết 72-NQ/TW đã đề ra 6 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, trong đó “phát triển đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số toàn diện trong chăm sóc sức khỏe Nhân dân” được xác định là trụ cột chiến lược – then chốt – mở đường cho sự chuyển mình mạnh mẽ của nền y tế Việt Nam trong thời kỳ mới, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh, hạnh phúc và thịnh vượng.
Khoa học và công nghệ – động lực của nền y tế tự chủ, hiện đại và phát triển bền vững
Nghị quyết số 72-NQ/TW xác định khoa học và công nghệ là nền tảng quan trọng, là động lực chủ yếu để xây dựng nền y tế Việt Nam hiện đại, tự chủ và hội nhập quốc tế. Nghị quyết nhấn mạnh: “Ưu tiên cao nhất cho lĩnh vực y tế trong sử dụng Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia; tập trung nghiên cứu, sản xuất thuốc mới, vắc-xin, sinh phẩm và thiết bị y tế công nghệ cao; hình thành Khu công nghiệp dược phẩm quốc gia vào năm 2030.”
Khu tiếp nhận mẫu từ hệ thống vận chuyển tự động hút chân không (LIS) tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ.
Đây là chủ trương mang tính đột phá, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc chủ động nguồn lực khoa học – công nghệ, giảm phụ thuộc nhập khẩu, tiến tới tự chủ hoàn toàn về vắc-xin, thuốc, vật tư và thiết bị y tế – những yếu tố then chốt để bảo đảm an ninh y tế quốc gia và phát triển bền vững ngành y tế.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực này:
– Việt Nam đã sản xuất thành công vaccine cúm mùa IVACFLU-S khẳng định năng lực tự chủ về công nghệ sinh học.
– Ứng dụng công nghệ gen và sinh học phân tử trong điều trị ung thư cá thể hóa: Tại Bệnh viện K, Bệnh viện Trung ương Huế, kỹ thuật giải trình tự gen (NGS) được sử dụng để xác định đột biến gen ung thư, từ đó lựa chọn thuốc trúng đích phù hợp từng bệnh nhân – bước đầu của y học chính xác (Precision Medicine) ở Việt Nam.
– Kỹ thuật cao trong lĩnh vực tim mạch – hô hấp – hồi sức cấp cứu, cứu sống hàng nghìn ca nguy kịch, nâng tầm trình độ y học Việt Nam: Kỹ thuật tim phổi nhân tạo (ECMO) được triển khai thành công tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Trung ương Huế, giúp cứu sống hàng trăm bệnh nhân suy hô hấp, suy tim nặng, viêm phổi do COVID-19, ngộ độc, viêm cơ tim cấp… Việt Nam hiện nằm trong nhóm ít nước Đông Nam Á làm chủ kỹ thuật ECMO hoàn toàn, không cần chuyên gia nước ngoài.
– Phẫu thuật nội soi 3D và rô-bốt Da Vinci: Bệnh viện Bình Dân, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện K, Bệnh viện Trung ương Huế đã làm chủ kỹ thuật phẫu thuật rô-bốt Da Vinci trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt, đại trực tràng, dạ dày, cắt tử cung, cắt gan, ghép thận… Rô-bốt có độ chính xác cực cao (sai lệch dưới 1mm), giảm mất máu, rút ngắn thời gian nằm viện 30–40%. Việt Nam là nước thứ 2 ở Đông Nam Á sau Singapore triển khai rô-bốt Da Vinci thành công.
Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ liệu lớn (Big Data), Blockchain, Internet vạn vật (IoT) và công nghệ sinh học đang mở ra những cơ hội chưa từng có cho ngành y tế Việt Nam: từ chẩn đoán hình ảnh tự động, giám sát dịch bệnh thông minh, tối ưu hóa quy trình bệnh viện, đến nghiên cứu y học tái tạo và y học dự phòng chủ động.
Những thành tựu ấy khẳng định rằng, Việt Nam đang từng bước làm chủ công nghệ y học hiện đại, tiến tới nền y tế tự chủ, sáng tạo, an toàn và bền vững – hiện thực hóa mục tiêu “khoa học và công nghệ là động lực phát triển hàng đầu của sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe Nhân dân.”
Chuyển đổi số y tế – Từ quản lý hành chính sang hệ sinh thái dữ liệu
Nghị quyết số 72-NQ/TW đã khẳng định rõ: “Khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là một trong những đột phá chiến lược, giữ vai trò then chốt trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân.” Quan điểm này đánh dấu một bước chuyển mang tính lịch sử trong tư duy lãnh đạo và quản trị y tế – từ y tế chữa bệnh sang y tế dự phòng, từ quản lý hành chính sang quản trị dựa trên dữ liệu, từ kinh nghiệm cảm tính sang bằng chứng khoa học. Đây chính là nền tảng của nền y tế thông minh – hiện đại – nhân văn, phù hợp với xu thế của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Người bệnh đến BVĐK Trung ương Cần Thơ thanh toán viện phí không cần tiền mặt.
Theo tinh thần Nghị quyết, đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu hoàn thành xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế, bảo đảm kết nối, chia sẻ, liên thông đồng bộ giữa các hệ thống: hồ sơ sức khỏe điện tử, bệnh án điện tử, đơn thuốc điện tử và bảo hiểm y tế. Khi đó, mỗi người dân sẽ có một sổ sức khỏe điện tử cá nhân được theo dõi suốt vòng đời; được khám, sàng lọc định kỳ hoặc miễn phí ít nhất mỗi năm một lần; được phát hiện sớm bệnh tật, dự báo nguy cơ, tư vấn điều trị và phòng bệnh từ xa, qua đó giảm chi phí y tế, nâng cao tuổi thọ khỏe mạnh và chất lượng cuộc sống.
Đây không chỉ là sự đổi mới về công nghệ, mà là cuộc cải cách toàn diện về tư duy quản trị và phương thức chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Khi dữ liệu trở thành nền tảng, ngành y tế có thể giám sát dịch bệnh chính xác hơn, quản lý tài chính minh bạch hơn, điều phối nguồn lực hiệu quả hơn, và phục vụ người dân công bằng hơn.
Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, chuyển đổi số y tế đang dần trở thành hiện thực. Tính đến tháng 9/2025, đã có 881/1.645 bệnh viện (đạt 53,6%) triển khai hồ sơ bệnh án điện tử (EMR) – giúp giảm hàng triệu hồ sơ giấy mỗi năm, rút ngắn thời gian khám chữa bệnh, và hướng tới mô hình “không giấy tờ – không phim ảnh – không tiền mặt.”
Hiện nay, Bộ Y tế đang triển khai Nền tảng Dữ liệu Y tế Quốc gia, hướng tới hình thành “bản đồ sức khỏe điện tử” của từng người dân Việt Nam. Khi trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (Big Data) được tích hợp, hệ thống sẽ có khả năng cảnh báo sớm nguy cơ bệnh tật, hỗ trợ ra quyết định lâm sàng, và tiến tới mô hình y tế dự phòng, chăm sóc chủ động – thông minh – vì sức khỏe toàn dân.
Kết hợp y học cổ truyền – y học hiện đại – y học số: Ba trụ cột tạo nên bản sắc riêng của nền y tế Việt Nam
Một điểm nhấn đặc sắc và mang tính đột phá của Nghị quyết số 72-NQ/TW là chủ trương kết hợp hài hòa giữa y học cổ truyền, y học hiện đại và y học số, coi đây là ba trụ cột tạo nên bản sắc riêng của nền y tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Việt Nam là quốc gia có kho tàng tri thức y học cổ truyền vô cùng phong phú, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Nếu được số hóa, chuẩn hóa và khai thác hiệu quả, kho tàng tri thức ấy không chỉ là nguồn tài nguyên y học quý giá, mà còn là động lực phát triển công nghiệp dược liệu, sản phẩm y sinh, du lịch chữa bệnh và quảng bá thương hiệu y học Việt Nam ra thế giới.
Chuyên gia Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ chuyên môn cho Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Lào Cai.
Nghị quyết 72-NQ/TW yêu cầu phát huy tiềm năng y học cổ truyền gắn với ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại, đồng thời xây dựng Cơ sở dữ liệu dược liệu quốc gia, truy xuất nguồn gốc dược liệu, tiêu chuẩn hóa bài thuốc, và kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo – nghiên cứu – khám chữa bệnh, nhằm tạo ra hệ sinh thái y học Việt Nam hiện đại, nhân văn và hội nhập quốc tế.
Thực tiễn cho thấy nhiều mô hình tiêu biểu đã và đang hiện thực hóa tinh thần đó: Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam đã số hóa hơn 5.000 bài thuốc cổ truyền, hình thành ngân hàng tri thức quốc gia về dược liệu và bài thuốc phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu và bào chế thuốc. Dự án “Bản đồ số dược liệu Việt Nam” do Bộ Y tế chủ trì đang được triển khai, giúp truy xuất nguồn gốc, chống gian lận thương mại và bảo tồn nguồn gen dược liệu quý hiếm. Nhiều doanh nghiệp dược lớn đã ứng dụng công nghệ blockchain trong quản lý chuỗi cung ứng dược liệu – từ vùng trồng đến sản phẩm, bảo đảm tính minh bạch, an toàn và chất lượng sản phẩm.
Những bước đi cụ thể đó khẳng định sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa tri thức dân tộc và công nghệ tiên tiến – không chỉ giữ gìn giá trị văn hóa y học cổ truyền, mà còn nâng tầm vị thế của y học Việt Nam trên bản đồ y tế thế giới, hướng tới một nền y học “đậm đà bản sắc dân tộc – hiện đại – hội nhập – nhân văn”.
Đầu tư cho con người – “trái tim” của đổi mới và hội nhập y tế số
Không có công nghệ nào thành công, không có chuyển đổi số nào bền vững nếu thiếu yếu tố con người. Nghị quyết số 72-NQ/TW khẳng định: phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng cao, có đạo đức, có năng lực số là khâu đột phá, là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền y tế hiện đại, tự chủ và nhân văn. Ngành y phải tập trung đào tạo đội ngũ thầy thuốc “vừa hồng, vừa chuyên” – vừa giỏi chuyên môn, vững vàng về công nghệ, am hiểu dữ liệu, tận tụy vì sức khỏe Nhân dân.
Bác sĩ niên khóa 2019–2025 của Trường Đai học Y Hà Nội trong ngày tốt nghiệp.
Cùng với đó, nhiều chính sách đãi ngộ đặc thù đã và đang được triển khai: tăng phụ cấp nghề từ 70–100% cho nhân viên y tế cơ sở, vùng khó khăn; xếp lương khởi điểm cao hơn cho bác sĩ, dược sĩ; khuyến khích luân chuyển bác sĩ về tuyến xã, góp phần bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khỏe toàn dân. Ngành y cũng đưa kỹ năng số và quản lý dữ liệu y tế vào chương trình đào tạo bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ; đồng thời đẩy mạnh đào tạo sau đại học, bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số và thí điểm mô hình “Bác sĩ số” tại Hà Nội và TP.HCM, nơi các bác sĩ sử dụng nền tảng trí tuệ nhân tạo (AI) để hỗ trợ chẩn đoán, kê đơn và tư vấn từ xa cho người dân.
Đây không chỉ là chính sách đãi ngộ, mà còn là đầu tư chiến lược cho tương lai – dành cho lực lượng đang ngày đêm gìn giữ, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân, chung sức xây dựng nền y tế hiện đại, công bằng, bền vững, vì con người và do con người.
Hướng tới nền y tế thông minh, nhân văn, tự chủ và hội nhập quốc tế
Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị không chỉ là kim chỉ nam cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân, mà còn là lời hiệu triệu cho toàn ngành y tế, cho đội ngũ cán bộ, thầy thuốc, nhà khoa học, doanh nghiệp và mỗi người dân Việt Nam – cùng chung tay kiến tạo một nền y tế hiện đại, công bằng, bền vững và giàu tính nhân văn. Trong tầm nhìn ấy, sức khỏe con người là trung tâm, khoa học – công nghệ là động lực, dữ liệu là nền tảng, và đội ngũ thầy thuốc là linh hồn của hệ thống.
Triển khai Nghị quyết 72 không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành y tế, mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của từng cấp ủy, chính quyền và toàn xã hội. Bởi lẽ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân không chỉ là công việc chuyên môn, mà còn là sứ mệnh nhân văn, là biểu hiện cao nhất của lòng nhân ái và văn minh xã hội.
Với ý chí kiên cường, trí tuệ Việt Nam và khát vọng vươn lên, chúng ta tin tưởng rằng: Nền y tế Việt Nam sẽ không ngừng đổi mới, hội nhập và phát triển; mỗi người dân Việt Nam sẽ được sống khỏe mạnh, hạnh phúc và an toàn; và Tổ quốc Việt Nam sẽ ngày càng phồn vinh, thịnh vượng trong kỷ nguyên chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo.
Trong bối cảnh y học hiện đại đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng lấy người bệnh làm trung tâm, việc chăm sóc sức khỏe sinh sản đang dần được nhìn nhận như một trụ cột quan trọng của y tế toàn diện.
Chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế dự Hội nghị khoa học tại Bệnh viện đại học Y dược Thành phố.
Câu chuyện của anh G. (27 tuổi) từng sống trong mặc cảm vì hai năm cưới vợ vẫn chưa có con là ví dụ điển hình cho những tiến bộ y học đang làm thay đổi cuộc sống của hàng nghìn người.
Khi đến thăm khám tại Bệnh viện đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, anh G. được chẩn đoán giãn tĩnh mạch tinh hai bên, một trong những nguyên nhân phổ biến gây vô sinh nam.
Sau khi được chỉ định vi phẫu thắt tĩnh mạch tinh, chỉ sáu tháng sau, tình hình của anh đã cải thiện rõ rệt và bảy tháng sau khi phẫu thuật, vợ anh có thai tự nhiên. “Khoảnh khắc biết tin vợ mang thai là hạnh phúc lớn nhất đời tôi”, anh G. xúc động chia sẻ.
Những câu chuyện như anh G. đã phản ánh bước tiến quan trọng của y học giới tính và nam học Việt Nam, lĩnh vực từng bị xem là tế nhị giờ đây được tiếp cận bằng khoa học, nhân văn và chuẩn mực quốc tế.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang, Chủ tịch Hội y học Giới tính Việt Nam phát biểu.
Trong hai ngày 17-18/10/2025, Bệnh viện đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh cùng Hội Y học Giới tính Việt Nam và Tổ chức Nam học toàn cầu phối hợp tổ chức hội nghị khoa học quốc tế về lĩnh vực tiết niệu, nam học, y học giới tính. Sự kiện quy tụ hơn 500 đại biểu trong và ngoài nước tham dự.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang, Chủ tịch Hội y học Giới tính Việt Nam, cho biết: “Diễn đàn học thuật là bước tiến trong chiến lược phát triển chuyên ngành nam học và y học giới tính. Việc phối hợp giữa các hội chuyên ngành và các bệnh viện lớn giúp hình thành mạng lưới học thuật bền vững, chuẩn hóa thực hành và thúc đẩy nghiên cứu tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế”.
Đại biểu dự hội nghị khoa học.
Các tham luận khoa học đã cho thấy rõ xu hướng chăm sóc sức khỏe hiện đại hướng đến người bệnh sống khỏe mạnh cả thể chất lẫn tinh thần. “Với chuyên ngành tiết niệu-nam học, bệnh viện đang phát triển mạnh theo hướng phối hợp liên chuyên khoa để mang lại dịch vụ toàn diện, hiệu quả nhất cho người bệnh”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh, Phó Giám đốc Bệnh viện đại học Y dược Thành phố chia sẻ.
Các diễn giả, nhà khoa học đã thảo luận hai chủ đề lớn gồm: Tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị vô sinh nam và cập nhập mới trong quản lý rối loạn chức năng tình dục nam và nữ.
Các công trình nghiên cứu đã giới thiệu hàng loạt kỹ thuật tiên tiến như thăm khám tinh dịch theo hướng dẫn mới Tổ chức Y tế thế giới (WHO), xét nghiệm DNA tinh trùng, xét nghiệm di truyền,…
Song song đó là các giải pháp điều trị chuyên ngành về nam học bằng liệu pháp PRP, sóng xung kích LiSWT hay thuốc PDE5i đã chứng minh hiệu quả rõ rệt.
Tiến sĩ Đỗ Anh Toàn, Trưởng khoa Tiết niệu, Bệnh viện đại học Y dược Thành phố nhận định: Chúng tôi coi đây là cơ hội quý để giới y khoa trong nước cập nhật tri thức, đẩy mạnh nghiên cứu và tiếp cận công nghệ mới.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thái, Khoa Tiết niệu, Bệnh viện đại học Y dược Thành phố phát biểu.
Theo thống kê của WHO, khoảng 1/6 cặp vợ chồng trên thế giới đang đối mặt với vô sinh, trong đó 50% nguyên nhân xuất phát từ nam giới. Ngoài ra, 30% nam giới ở độ tuổi trung niên gặp những rối loạn chức năng tình dục. Những con số cho thấy sức khỏe sinh sản không còn là vấn đề cá nhân mà là vấn đề y tế công cộng mang tính toàn cầu.
Chia sẻ tại hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thái, Khoa Tiết niệu, Bệnh viện đại học Y dược Thành phố cho biết: “Các bệnh lý sinh sản và tình dục vốn gắn liền với tâm lý e ngại nhưng nhờ truyền thông và nhận thức cộng đồng được nâng cao, ngày càng nhiều người chủ động thăm khám sớm, từ đó bác sĩ can thiệp kịp thời và giảm gánh nặng tâm lý cho người bệnh”.
Bệnh viện đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh đang triển khai nhiều chương trình hợp tác quốc tế, hướng tới đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và nghiên cứu chung nhằm nâng cao chất lượng điều trị và lan tỏa tri thức khoa học đến cộng đồng y tế trong nước.
Đại biểu quốc tế chụp ảnh lưu niệm tại sự kiện.
Tại diễn đàn khoa học, các chuyên gia đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Mỹ, Singapore,.. đã có nhiều trao đổi chuyên sâu về định hướng nghiên cứu y học về giới tính hiện đại, hướng đến thông điệp nhân văn: Chăm sóc chất lượng sống và hạnh phúc con người.
Điều này được Chủ tịch Hội y học Giới tính Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang khẳng định: “Chúng ta không chỉ điều trị bệnh mà còn giúp người bệnh sống khỏe mạnh, tự tin và hạnh phúc trong chính cơ thể của mình”.
Đây cũng chính là tinh thần của y học hiện đại, nơi tri thức khoa học hòa quyện với giá trị nhân văn, nơi đặt sức khỏe sinh sản ngang hàng với các lĩnh vực y học khác đã cho thấy tầm nhìn khoa học và khẳng định quyền được sống khỏe của mỗi người.
Sáng 20/10/2025, Cục Phòng bệnh (Bộ Y tế) đã tiến hành kiểm tra công tác phòng, chống dịch tại khu vực Nhà Quốc hội, làm việc với các tổ y tế thường trực tại khu vực Nhà Quốc hội về các nội dung chuẩn bị, sẵn sàng các tình huống bảo đảm an toàn dịch bệnh phục vụ Kỳ họp.
Phó Cục trưởng Cục Phòng bệnh Võ Hải Sơn và các thành viên đoàn kiểm tra trao đổi với Tổ thường trực phòng, chống dịch tại Tòa nhà Quốc hội.
Thực hiện Kế hoạch số 1426/KH-BYT ngày 10/10/2025 của Bộ Y tế về bảo đảm công tác y tế và phòng chống dịch bệnh phục vụ Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV từ ngày 20/10-12/2025 tại Nhà Quốc hội, Cục Phòng bệnh đã phối hợp với Sở Y tế Hà Nội triển khai công tác phòng, chống dịch phục vụ Kỳ họp thứ 10 tại Nhà Quốc hội, nhà khách, khách sạn nơi đại biểu, khách mời ăn nghỉ và tại các địa điểm khác trên địa bàn khi được huy động trong thời gian họp của Kỳ họp thứ 10;
Đồng thời tăng cường công tác phòng, chống dịch trên địa bàn Thành phố nhằm bảo đảm không để xảy ra dịch bệnh trong thời gian diễn ra Kỳ họp.
Kiểm tra các yếu tố nguy cơ khu vực ngoại cảnh tại Tòa nhà Quốc hội.
Kết quả kiểm tra cho thấy Sở Y tế Hà Nội, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật Hà Nội (CDC Hà Nội) và các đơn vị liên quan đã chủ động bố trí cán bộ thường trực phòng, chống dịch tại địa điểm họp, chủ động triển khai các hoạt động giám sát, vệ sinh môi trường, kiểm soát véc tơ phòng bệnh đảm bảo theo kế hoạch đã đề ra.
Kiểm tra một khu vực đọng nước tại Tòa nhà Quốc hội.
Để bảo vệ tốt nhất và bảo đảm an toàn dịch bệnh cho Kỳ họp Quốc hội lần này, Phó Cục trưởng Cục Phòng bệnh Võ Hải Sơn đề nghị CDC Hà Nội tiếp tục tăng cường giám sát, nắm chắc tình hình dịch bệnh, nhất là bệnh sốt xuất huyết và cúm mùa;
Kiểm tra tủ thuốc phục vụ công tác sơ cấp cứu tại tòa nhà Quốc hội.
Phối hợp chặt chẽ với Phòng Y tế của Văn phòng Quốc hội thường xuyên tiến hành giám sát các khu vực trong Tòa nhà Quốc hội nhằm phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ dịch bệnh, chủ động tổ chức loại bỏ các các ổ đọng nước, diệt loăng quăng/bọ gậy và các biện pháp phòng bệnh chủ động khác; sẵn sàng nhân lực, vật tư, hóa chất phục vụ công tác đáp ứng, không để bị động với bất kỳ tình huống dịch bệnh nào xảy ra.
Gặp gỡ Tổ Y tế thường trực cấp cứu tại Tòa nhà Quốc hội.
Những năm qua, các thầy thuốc của ngành y tế Việt Nam đã luôn nỗ lực, không ngừng trau dồi chuyên môn, làm chủ nhiều kỹ thuật cao trong khám chữa bệnh, không chỉ góp phần nâng cao sức khoẻ nhân dân trong nước mà còn làm rạng danh, nâng tầm thương hiệu y tế Việt Nam…
Theo Bộ Y tế, trong giai đoạn 2020-2025, công tác thi đua yêu nước của ngành y tế nói chung, các bệnh viện nói riêng luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật cao để nâng chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân…
Làm chủ nhiều kỹ thuật khó về ghép đa tạng: Niềm tự hào của ngành y tế Việt Nam
Hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không ngừng được củng cố và phát triển. Chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh ở tất cả các tuyến chuyên môn kỹ thuật được chú trọng nâng cao. Các bệnh viện tích cực nâng cao chất lượng lâm sàng thông qua việc áp dụng, cập nhật, triển khai các hướng dẫn kỹ thuật.
Cùng với đó, mạng lưới bệnh viện vệ tinh được mở rộng; hình thành và phát triển hệ thống khám, chữa bệnh từ xa, kết nối bệnh viện tuyến trên với hơn 1.500 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc, kể cả vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
E kip bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức tiến hành ca phẫu thuật ghép đồng thời khối tim – phổi cho người bệnh.
Bộ Y tế cũng cho hay, Việt Nam đã tiếp cận và làm chủ được những kỹ thuật đỉnh cao trong lĩnh vực y khoa (như ghép tạng, ghép đa tạng trên một người bệnh, can thiệp tim bào thai, các kỹ thuật can thiệp tim mạch; hỗ trợ sinh sản (thụ tinh trong ống nghiệm); ghép tế bào gốc; kỹ thuật mổ cột sống có sử dụng Robot; kỹ thuật cấy tim nhân tạo; kỹ thuật sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư…
Trong đó, có nhiều chuyên ngành, lĩnh vực y khoa, do chính các bác sĩ Việt Nam làm thầy, chuyển giao kỹ thuật cho bác sĩ của các nước trên thế giới. Các kỹ thuật này đã và đang tiếp tục được chuyển giao từ các chuyên gia của bệnh viện tuyến trung ương, bệnh viện tuyến trên tới bệnh viện các địa phương trên cả nước.
Điển hình tiên tiến trong lĩnh vực ghép tạng và triển khai các kỹ thuật mới cho thấy trong những năm qua, ngành Y tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong việc ứng dụng các kỹ thuật cao, chuyên sâu trong khám chữa bệnh.
Nổi bật trong số đó là Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế – những đơn vị điển hình tiên tiến tiêu biểu trong lĩnh vực ghép tạng và kỹ thuật y học hiện đại góp phần quan trọng trong cứu sống nhiều bệnh nhân nặng, mang lại cơ hội sống mới cho hàng ngàn người.
Với sự phát triển vượt bậc về trình độ chuyên môn, trang thiết bị hiện đại và đội ngũ y bác sĩ tâm huyết, ba bệnh viện này là hình mẫu tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước ngành Y tế, góp phần đưa nền y học Việt Nam tiệm cận trình độ khu vực và thế giới.
Đây cũng là minh chứng rõ rệt cho sức mạnh của đổi mới, sáng tạo và nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, thực hiện sứ mệnh “chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân” trong thời đại mới.
Đơn cử, các bác sĩ của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức mới đây thành công trong ghép đồng thời khối tim-phổi đầu tiên tại Việt Nam. Với thành công này, các bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã đưa Việt Nam vào nhóm rất ít quốc gia làm chủ kỹ thuật ghép đa tạng phức tạp nhất thế giới, mở ra cơ hội sống mới cho bệnh nhân suy đa tạng.
Theo TS Hà Anh Đức, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế), kỳ tích này không chỉ là chiến thắng của riêng Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức mà còn là niềm tự hào của ngành y tế Việt Nam, là minh chứng rằng, y học Việt Nam hoàn toàn có thể chinh phục những đỉnh cao kỹ thuật từng được coi là bất khả thi, góp phần nâng tầm vị thế y học Việt Nam trên trường quốc tế.
“Dù Việt Nam đi sau nhiều năm so với thế giới, nhưng hiện nay chúng ta tự tin sánh ngang với các cường quốc năm châu về ghép tạng. Trình độ của đội ngũ cán bộ, khả năng hiệp đồng, ý chí quyết tâm của các bác sĩ đã làm nên thành công này”, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh Hà Anh Đức nói.
Bệnh viện Trung ương Huế đã lập kỷ lục khi thực hiện ghép tạng thành công cho 8 bệnh nhân chỉ trong vòng 48 giờ.
Hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam có tỷ lệ thành công ngang tầm thế giới
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, Việt Nam có hơn 70 trung tâm hỗ trợ sinh sản, trong đó có 8 đến 9 trung tâm được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trong số các trung tâm này, có 2 bệnh viện công lập đạt chất lượng ngang tầm khu vực và quốc tế, bao gồm Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Đây là một kết quả rất đáng mừng dù lĩnh vực hỗ trợ sinh sản của Việt Nam đi sau thế giới rất nhiều năm.
Đến nay, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản tại Việt Nam đã áp dụng các quy trình quản lý chất lượng quốc tế, bao gồm: Quản lý chất lượng trong các khâu lâm sàng, phòng thí nghiệm và quản trị; ứng dụng công nghệ số để theo dõi, quản lý chất lượng các quy trình; đạt các chứng nhận quốc tế về quản lý chất lượng.
“Lĩnh vực hỗ trợ sinh sản của Việt Nam dù đi sau thế giới gần 15-20 năm nhưng cũng đã nhanh chóng theo kịp thế giới về chất lượng. Riêng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, tỷ lệ thành công của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đạt khoảng 60%, tương đương với khu vực và quốc tế”- Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương Nguyễn Duy Ánh cho biết.
Hay tại Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVF Mỹ Đức (IVFMD) mới đây đã công bố thành tựu khoa học mới mang tên “Phác đồ Sài Gòn” (Saigon Protocol) – phác đồ điều trị hiếm muộn mới do đội ngũ bác sĩ IVF Mỹ Đức nghiên cứu và phát triển, dựa trên các phát kiến gần đây của thế giới về thụ tinh trong ống nghiệm không kích thích buồng trứng.
Kết quả của phác đồ điều trị mới này đã được đăng tải trên tạp chí quốc tế Fertility & Sterility – tạp chí chuyên ngành chính thức của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ.
“Phác đồ Sài Gòn” cũng được giới thiệu tại Hội nghị khu vực Asia CORE 2025 tổ chức tại Bali (Indonesia), cùng nhiều hội nghị khoa học quốc tế khác, đánh dấu một bước tiến quan trọng của chuyên ngành hỗ trợ sinh sản Việt Nam trên bản đồ hỗ trợ sinh sản toàn cầu.
Nhiều gia đình hiếm muộn có được niềm vui làm cha mẹ khi các thầy thuốc Việt Nam làm chủ nhiều kỹ thuật cao trong chuyên ngành hỗ trợ sinh sản.
“Phác đồ Sài Gòn” giúp tiết kiệm chi phí (Giảm khoảng 30% chi phí thuốc kích thích buồng trứng, không phải đông lạnh phôi và chuyển phôi đông lạnh); Không đau do không tiêm thuốc (người vợ tránh được giai đoạn tiêm kích thích buồng trứng, thân thiện hơn và giảm stress khi điều trị); An toàn hơn (Vì không tiêm thuốc nên loại bỏ nguy cơ quá kích buồng trứng); Rút ngắn thời gian điều trị (Chỉ cần một chu kỳ duy nhất cho cả chọc hút và chuyển phôi tươi);
Cùng đó, chất lượng phôi và nội mạc tốt hơn (Nội mạc không chịu tác động của quá nhiều hormone, phôi không bị ảnh hưởng bởi đông lạnh – rã phôi, sức sống của phôi được cải thiện, từ đó nâng cao tỉ lệ thành công).
Phác đồ này phù hợp với các nhóm bệnh nhân: Phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS); Phụ nữ có tiên lượng đáp ứng nhiều (AFC > 15 nang noãn) hoặc AMH ≥ 4 ng/mL; Phụ nữ mắc hội chứng buồng trứng kháng Gonadotropin (GROS); Phụ nữ có dự trữ buồng trứng bình thường hoặc tốt, mong muốn điều trị thụ tinh trong ống nghiệm một cách đơn giản, thân thiện…
Việc triển khai Hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám, chữa bệnh là bước đột phá trong chuẩn hóa cơ sở dữ liệu, nâng cao chất lượng quản trị và năng lực đáp ứng của ngành
TS.BS Hà Anh Đức- Phó Chủ tịch Hội đồng Y khoa Quốc gia, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) đã nhấn mạnh thông tin này tại hội thảo công bố và tập huấn sử dụng Hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám, chữa bệnh cho 19 Sở Y tế (từ Quảng Trị trở ra) và các bệnh viện, viện có giường bệnh trực thuộc Bộ Y tế khu vực Bắc Trung bộ và miền Bắc do Cục Quản lý Khám, chữa bệnh tổ chức ngày 20/10 ở Hà Nội.
TS.BS Hà Anh Đức- Phó Chủ tịch Hội đồng Y khoa Quốc gia, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh phát biểu.
Hàng trăm nghìn người hành nghề và cơ sở khám chữa bệnh đang phân tán quản lý ở nhiều đầu mối
Theo TS Đức, trước đây quản lý người hành nghề và cơ sở khám, chữa bệnh chủ yếu phân tán ở nhiều đầu mối, quy trình cập nhật thủ công, tiêu chuẩn dữ liệu chưa thống nhất; việc theo dõi biến động (như thay đổi nơi làm việc, phạm vi hành nghề, giờ làm việc, danh mục kỹ thuật, trang thiết bị, oxy y tế…) gặp hạn chế. “Hệ quả là khó tạo bức tranh tổng thể, khó khai thác số liệu thời gian thực để điều hành chính sách, thanh – kiểm tra và bảo đảm chất lượng chuyên môn”- ông Đức nói và cho biết thêm: Hiện nay trên cả nước có trên 850.000 người đang hành nghề, hơn 70.000 cơ sở khám, chữa bệnh; 1.700 bệnh viện công lập; các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế; 406 bệnh viện tư nhân, trong đó 90% phòng khám tư nhân thuộc quản lý Sở Y tế.
Cục trưởng Hà Anh Đức cho hay, Hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám, chữa bệnh được triển khai trên cơ sở các chủ trương, nhiệm vụ của Chính phủ và Bộ Y tế về dữ liệu và chuyển đổi số.
Để có đầy đủ dữ liệu, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh từng bước triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử, thu thập cơ sở dữ liệu người hành nghề, cơ sở khám chữa bệnh, thực hiện bệnh án điện tử…
Đối với bệnh án điện tử, TS Đức thông tin, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh đã tham mưu và ban hành trên 100.000 danh mục dùng chung, 2.960 danh mục cận lâm sàng phục vụ cho thực hiện bệnh án điện tử.
Các đại biểu tham dự tập huấn.
Thống nhất quản lý, giám sát toàn quốc hoạt động hành nghề khám chữa bệnh
TS Hà Anh Đức cho biết, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh sẽ tiến hành tập huấn và hỗ trợ tập huấn cho các Sở Y tế để cập nhật thông tin dữ liệu của người hành nghề và các cơ sở khám, chữa bệnh. Đồng thời, Cục sẽ việc với Trung tâm Thông tin Y tế Quốc gia, Cục C06, Cục C12 để bảo đảm vận hành hạ tầng, bảo đảm an toàn, an ninh hệ thống; tổ chức công bố và tập huấn toàn quốc theo kế hoạch.
Mỗi Sở Y tế được cấp tối thiểu 01 tài khoản quản trị để quản lý, giám sát các cơ sở khám, chữa bệnh và người hành nghề thuộc phạm vi địa bàn.
Mỗi cơ sở khám, chữa bệnh được cấp 01 tài khoản tổ chức và gắn mã định danh GLN (duy nhất, dùng thống nhất trên toàn quốc). Tài khoản được cấp qua địa chỉ thư điện tử do cơ sở cung cấp; cơ sở có trách nhiệm cập nhật kịp thời thông tin đơn vị khi có thay đổi. cơ sở dữ liệu này sẽ là lớp dữ liệu cơ sở y tế trên bản đồ số Quốc gia phục vụ các mục đích như du lịch chăm sóc y tế
Mỗi người hành nghề được cấp 01 tài khoản cá nhân, gắn với định danh cá nhân theo quy định; thông tin cấp tài khoản được hệ thống gửi tới địa chỉ thư điện tử đã đăng ký. Người hành nghề chịu trách nhiệm toàn diện về tính chính xác, trung thực của thông tin khai báo và phải cập nhật khi có thay đổi.
Tại buổi tập huấn, TS.BS Nguyễn Đình Hưng- Phó Giám đốc phụ trách Sở Y tế Hà Nội đã chia sẻ, Sở Y tế gặp rất nhiều khó khăn trong quản lý cơ sở dữ liệu của các cá nhân và phòng khám. Hiện Sở Y tế có 43 bệnh viện trực thuộc và 5.000 phòng khám tư nhân, 10.000 hiệu thuốc. Khi không có cơ sở dữ liệu, Sở Y tế mất rất nhiều thời gian để làm công văn gửi các địa phương để xem các đơn vị, cá nhân đã được cấp phép chưa, có bị trùng lặp không…
TS.BS Nguyễn Đình Hưng- Phó Giám đốc phụ trách Sở Y tế Hà Nội phát biểu.
TS Nguyễn Đình Hưng hy vọng, khi triển khai hệ thống quản lý quốc gia về hành nghề và hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, Sở Y tế sẽ có thể quản lý và có đầy đủ thông tin, dữ liệu về người hành nghề và cơ sở khám, chữa bệnh để hỗ trợ quản lý nhà nước hiệu quả, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế và chuyển đổi số.
Trong tuần này, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh sẽ triển khai lớp tập huấn tương tự cho 15 Sở Y tế các tỉnh/thành phố còn lại tại TPHCM và các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, một số bệnh viện trên địa bàn TPHCM.
Hà Nội và TPHCM là 2 địa phương có số lượng bệnh viện và người hành nghề tập trung nhiều nhất cả nước. Dự kiến đến các thông tin cơ bản của cơ sở khám chữa bệnh và người hành nghề được cập nhật trước ngày 30/11/2025.
Bộ Y tế cho biết, các phong trào thi đua yêu nước của Bộ Y tế thời gian qua đều lồng ghép vào kế hoạch công tác thi đua, khen thưởng hàng năm của ngành, với nhiều nội dung thiết thực, phù hợp với nhiệm vụ và yêu cầu của ngành, đơn vị, và được toàn thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hướng ứng…
Các phong trào thi đua yêu nước của ngành phát động đã thực sự động viên, thu hút được đông đảo cán bộ, công chức, viên chức ngành Y tế cùng tham gia, tạo nên không khí thi đua sôi nổi, rộng khắp trong ngành y tế trên phạm vi cả nước, đã nỗ lực không ngừng phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, bằng sự lao động tận tụy, bền bỉ và sáng tạo, thu được những thành tựu to lớn, làm biến đổi một cách sâu sắc từ nhận thức tư tưởng đến tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động; từ chuyên môn, khoa học kỹ thuật đến nâng cao y đức; xây dựng mối quan hệ mang tính nhân văn cao cả giữa thầy thuốc và người bệnh.
Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan chủ trì buổi tập huấn các quy định về phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực y tế và sắp xếp, tổ chức các cơ sở y tế địa phương theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp tại điểm cầu Bộ Y tế.
Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế chính sách về y tế được xác định là khâu đột phá
Về kết quả thực hiện các phong trào thi đua yêu nước góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của ngành, Bộ Y tế cho biết, đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, Bộ Y tế quan tâm, chú trọng, xác định là khâu đột phá trong việc cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực y tế, là chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị cũng như trong toàn ngành.
Việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, xác định các vướng mắc, bất cập để kịp thời sửa đổi, bổ sung, đề xuất các cơ chế đặc thù của ngành Y tế được thực hiện thường xuyên.
Trong giai đoạn 2020-2025, ngành đã trình Quốc hội thông qua 4 dự án Luật quan trọng là: Luật số 71/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); Luật Khám bệnh, chữa bệnh 2023 số 15/2023/QH15; Luật Dược sửa đổi 2024 số 44/2024/QH15, Luật BHYT sửa đổi 2024 số 51/2024/QH15.
Bộ Y tế cũng đã tham mưu ban hành các văn bản bao gồm: 03 Nghị quyết của Quốc hội; 01 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; 03 Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư]; 02 Chỉ thị của Ban Bí thư; 26 Nghị quyết và 14 Nghị định của Chính phủ; 29 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 147 Thông tư của Bộ Y tế (tính đến ngày 01/6/2025).
Nhiều chính sách phát triển trung hạn, dài hạn của ngành Y tế đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045-2050 để cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng như chiến lược phát triển tổng thể ngành Y tế và các chiến lược phát triển lĩnh vực cụ thể, quy hoạch ngành Y tế…;
Bên cạnh đó là nhiều chính sách, văn bản pháp luật nhằm tháo gỡ các bất cập, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn như mua sắm, đấu thầu, thanh quyết toán BHYT, cấp phép lưu hành thuốc, thiết bị, vật tư y tế, giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế, vị trí việc làm và định mức cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp…
Bộ Y tế cho biết, hiện nay, Bộ Y tế tiếp tục hoàn thiện các Dự án Luật Phòng bệnh, Luật Dân số, Luật An toàn thực phẩm (sửa đổi), Luật Thiết bị y tế; Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (sửa đổi); Nghị định quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật BHYT; Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Dược; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm; Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 96/2023/NĐ-CP ngày 30/12/2023 quy định chi tiết một số điều của Luật Khám bệnh, chữa bệnh…
Cùng với đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ngành Y tế và tổ chức thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng và triển khai với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, bảo đảm tính hiệu quả, nghiêm minh. Công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành, địa phương ban hành liên quan đến lĩnh vực y tế được thực hiện định kỳ, theo quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn 2020-2025, ngành đã trình Quốc hội thông qua 4 dự án Luật quan trọng, trong đó có Luật BHYT sửa đổi 2024 số 51/2024/QH15.
Hệ thống tổ chức y tế tiếp tục đổi mới, hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
Công tác đổi mới, sắp xếp hệ thống, tổ chức bộ máy ngành y tế, theo Bộ Y tế, hệ thống tổ chức y tế tiếp tục đổi mới, hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Tăng cường phân cấp, phân quyền, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp uỷ, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý toàn diện hệ thống y tế địa phương; kết hợp với sự chỉ đạo thống nhất xuyên suốt, hỗ trợ kịp thời về chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành từ Trung ương tới địa phương trong phạm vi cả nước.
Trung tâm kiểm soát bệnh tật tuyến tỉnh được thành lập tại tất cả các tỉnh thành trên cơ sở hợp nhất sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh; thành lập Trung tâm Y tế huyện đa chức năng cung cấp dịch vụ y tế dự phòng, khám bệnh, chữa bệnh, dân số.
Bộ Y tế đang lập Quy hoạch mạng lưới kiểm nghiệm theo định hướng sắp xếp lại các đơn vị làm nhiệm vụ kiểm nghiệm, kiểm định để hình thành hệ thống cơ quan kiểm soát dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm phù hợp, hội nhập quốc tế.
Bộ Y tế cũng cho biết, triển khai Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Trung ương về tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW và phương án sắp xếp tổ chức bộ máy, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2025/NĐ-CP ngày 27/02/2025 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế sau khi tiếp nhận chức năng quản lý nhà nước về bảo trợ xã hội, trẻ em và phòng, chống tệ nạn xã hội từ Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về Bộ Y tế.
Đồng thời xây dựng kế hoạch và triển khai phương án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Bộ Y tế để bảo đảm việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, đồng bộ, kịp thời theo đúng chỉ đạo của Ban Chỉ đạo về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Chính phủ.
Công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, phát triển nguồn nhân lực, theo Bộ Y tế, đội ngũ nhân lực y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng. Năm 2024, các chỉ tiêu nhân lực y tế trên 1 vạn dân lần lượt là 14 bác sĩ, 18 điều dưỡng và 3,3 dược sĩ đại học. Như vậy có 2/3 chỉ tiêu nhân lực y tế (số lượng bác sĩ và dược sĩ đại học) vượt mục tiêu đề ra theo Nghị quyết 20.
Theo Bộ Y tế, đội ngũ nhân lực y tế ngày càng được tăng cường về số lượng và chất lượng.
Hệ thống đào tạo nhân lực y tế đã có sự phát triển mạnh mẽ với nhiều cơ sở đào tạo nhân lực y tế trên cả nước. Tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực y tế tuyến dưới, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn thông qua Dự án “Thí điểm đưa Bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác tại vùng khó khăn”. Mạng lưới các cơ sở đào tạo nhân lực y tế tiếp tục phát triển cả công lập và ngoài công lập, mở rộng các chuyên ngành đào tạo.
Thực thi Luật Khám bệnh chữa bệnh 2023, Hội đồng y khoa quốc gia đã được thành lập theo Quyết định số 827/QĐ-TTg ngày 13/8/2024 thực hiện chức năng đánh giá độc lập năng lực hành nghề khám chữa bệnh.
Công tác đổi mới cơ chế tài chính, BHYT và tự chủ. Theo Bộ Y tế, trong thời gian qua, Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp để đổi mới cơ chế tài chính y tế theo hướng đa dạng hóa các nguồn tài chính cho y tế, trong đó tài chính công từ ngân sách nhà nước và BHYT đóng vai trò chủ đạo, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính y tế.
Cơ chế tài chính y tế đã từng bước được đổi mới và đạt được một số kết quả quan trọng như: Tỷ trọng nguồn tài chính công (gồm ngân sách và BHYT) tăng. Chuyển dần chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước trực tiếp cho cơ sở khám, chữa bệnh sang hỗ trợ người dân tham gia BHYT gắn với lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế.
Số đơn vị sự nghiệp y tế tự chủ được chi thường xuyên tăng, giảm số người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đấu thầu thuốc tập trung cấp quốc gia và địa phương được triển khai và đẩy mạnh, công khai kết quả trúng thầu, góp phần giảm chi phí mua thuốc, vật tư y tế.