Loãng xương tiến triển lặng lẽ, ít triệu chứng, nhưng có thể gây gãy xương, tàn phế và tử vong, nhất là ở người cao tuổi.
Loãng xương là tình trạng xương giòn, yếu, dễ gãy do mất dần mật độ và cấu trúc. Bệnh phổ biến ở phụ nữ sau mãn kinh và người cao tuổi. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp loãng xương vào nhóm 10 bệnh mạn tính phổ biến nhất, ước tính có hơn 200 triệu người mắc.
Tại Việt Nam, tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh lên tới 20-30%, còn ở nam giới trên 50 tuổi khoảng 10-15%. Một nghiên cứu tại Hà Nội cho thấy, cứ 5 phụ nữ sau mãn kinh thì có 1 người bị loãng xương, đặc biệt sau tuổi 65. Hậu quả nặng nề nhất là gãy xương, phổ biến ở cổ xương đùi, cột sống và cổ tay. Khoảng 20-25% người cao tuổi bị gãy cổ xương đùi có thể tử vong trong năm đầu sau chấn thương.
Theo ThS.BS Dương Văn Quyền, Trưởng khoa Cơ xương khớp – Phục hồi chức năng, Bệnh viện Đa khoa Vĩnh Phúc (Phú Thọ), loãng xương có thể phòng ngừa được. Người dân, đặc biệt phụ nữ sau mãn kinh và người cao tuổi, nên bổ sung canxi, vitamin D hợp lý, duy trì tập luyện đều đặn, tránh hút thuốc, hạn chế bia rượu. Việc khám sức khỏe định kỳ và đo mật độ xương có vai trò quan trọng trong phát hiện sớm, giúp điều trị kịp thời và giảm nguy cơ gãy xương.
Các bác sĩ cũng khuyến cáo: chỉ một cú ngã nhẹ cũng có thể gây gãy xương ở người loãng xương. Do đó, ngoài chế độ dinh dưỡng và luyện tập, cần chú ý phòng tránh té ngã, sắp xếp nhà cửa an toàn, đủ ánh sáng để bảo vệ sức khỏe xương khớp.
Theo Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị, bác sĩ, bác sĩ y học dự phòng, dược sĩ được xếp lương từ bậc 2 của chức danh nghề nghiệp được tuyển dụng; thực hiện chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhân viên y tế trực tiếp làm chuyên môn tại trạm y tế cấp xã, cơ sở y tế dự phòng…
Một trong những điểm nhấn quan trọng trong nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết đề ra là Nâng cao y đức, phát triển nhân lực y tế chất lượng, đồng bộ, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh và hội nhập quốc tế.
Lương từ bậc 2 khi được tuyển dụng
Tại Nghị quyết số 72 nêu rõ, đổi mới toàn diện phong cách, tinh thần, thái độ phục vụ Nhân dân, người bệnh gắn liền với nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ y tế, thực hiện tốt mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Lương y phải như từ mẫu”.
Đội ngũ thầy thuốc và nhân viên y tế phải phấn đấu sâu y lý, giỏi y thuật, giàu y đức, tận tụy với nghề nghiệp, xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội.
Theo Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị, thực hiện chính sách ưu đãi tương xứng với quan điểm nghề y là nghề đặc biệt, phải được đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt.
Rà soát, hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của cán bộ y tế; đổi mới và tăng cường giáo dục y đức, kiến thức pháp luật trong đào tạo khối ngành sức khoẻ; thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao ý thức tự học tập, rèn luyện, trau dồi y đức, quy tắc ứng xử, kỹ năng giao tiếp, tư vấn người bệnh.
Cải thiện môi trường làm việc, bảo đảm an toàn, giảm áp lực cho nhân viên y tế; đổi mới cách thức quản lý cung ứng dịch vụ y tế theo chất lượng đầu ra, đáp ứng sự hài lòng của cả người bệnh và nhân viên y tế.
Tuyên truyền, phát động phong trào thi đua sâu rộng, xây dựng, biểu dương, khen thưởng và nhân rộng các điển hình tiên tiến về y đức; nâng cao tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động, kiên quyết chấn chỉnh và khắc phục những biểu hiện tiêu cực tại các cơ sở y tế, xử lý nghiêm khắc, kịp thời các hành vi xâm hại nhân viên y tế. Tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong lĩnh vực y tế.
Phát triển nhân lực y tế bảo đảm đồng bộ về số lượng, chất lượng, cơ cấu, nhất là nhân lực phục vụ y tế cơ sở, y tế dự phòng, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, biên giới, biển đảo. Thực hiện quyết liệt, hiệu quả Đề án đào tạo, bồi dưỡng bác sĩ tạo nguồn cho trạm y tế cấp xã, đặc biệt cho các xã vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.
Ưu tiên bố trí, huy động nguồn lực, có cơ chế, chính sách vượt trội để phát triển nhân lực y tế. Tập trung đầu tư phát triển một số cơ sở đào tạo lĩnh vực sức khỏe chất lượng cao ngang tầm khu vực. Thực hiện đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ sau đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân trong lĩnh vực sức khỏe do Bộ Y tế quản lý.
Thực hiện chính sách ưu đãi tương xứng với quan điểm nghề y là nghề đặc biệt, phải được đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt. Bác sĩ, bác sĩ y học dự phòng, dược sĩ được xếp lương từ bậc 2 của chức danh nghề nghiệp được tuyển dụng.
Nâng phụ cấp ưu đãi nghề tối thiểu 70%
Nghị quyết nêu rõ, thực hiện chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhân viên y tế trực tiếp làm chuyên môn tại trạm y tế cấp xã, cơ sở y tế dự phòng; nâng mức phụ cấp ưu đãi nghề lên mức tối thiểu 70% cho người thường xuyên và trực tiếp làm chuyên môn y tế tại trạm y tế cấp xã, cơ sở y tế dự phòng;
100% cho người thường xuyên và trực tiếp làm chuyên môn y tế tại trạm y tế cấp xã, cơ sở y tế dự phòng ở khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, biên giới, biển đảo, lĩnh vực tâm thần, pháp y, pháp y tâm thần, hồi sức cấp cứu, giải phẫu bệnh và một số đối tượng đặc thù khác phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội.
Nâng phụ cấp ưu đãi nghề lên đến mức tối thiểu 70% cho người thường xuyên, trực tiếp làm chuyên môn tại trạm y tế xã, cơ sở y tế dự phòng…
Tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật, khoa học, công nghệ, đào tạo nhân lực trong lĩnh vực y tế và trao đổi, phát huy các thế mạnh, tiềm năng của y tế Việt Nam.
Ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài, đội ngũ trí thức, chuyên gia có chất lượng cao trong lĩnh vực y tế từ nước ngoài vào Việt Nam đầu tư và làm việc; đưa sinh viên giỏi, cán bộ y tế đi đào tạo chuyên sâu ở các nước có thế mạnh, kinh phí được chi trả từ các chương trình học bổng.
Tạo động lực, khuyến khích, động viên để thu hút nhân lực y tế
Trao đổi với phóng viên, một chuyên gia về xây dựng chính sách y tế bày tỏ niềm vui của người gắn bó với ngành y nói chung, với y tế cơ sở, y tế dự phòng nói riêng… trước những giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân của Nghị quyết số 72.
Trong đó, khi nói về những ưu đãi liên quan đến nhân lực y tế, chuyên gia này phân tích, trước đây chỉ thạc sĩ, bác sĩ nội trú tham gia giảng dậy ở các trường thì mới được xếp lương bậc 2 thì theo Nghị quyết số 72: Bác sĩ, bác sĩ y học dự phòng, dược sĩ được xếp lương từ bậc 2 của chức danh nghề nghiệp được tuyển dụng.
Cùng đó, phụ cấp ưu đãi nghề cũng được nâng lên 70% -100% theo từng vị trí việc làm ở trạm y tế cấp xã, cơ sở y tế dự phòng ở các vùng kinh tế xã hội khác nhau; lĩnh vực khó thu hút nhân lực đặc thù tâm thần, pháp y, pháp y tâm thần, hồi sức cấp cứu, giải phẫu bệnh và một số đối tượng đặc thù khác phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội.
Trong khi, trước đây những mức phụ cấp ưu đãi nghề này thường ở mức từ 20%-70% tùy theo vị trí việc làm.
“Những thay đổi này không chỉ là con số bậc 2 hay 70%, 100% mà hơn cả đó sự quan tâm, tạo động lực, khuyến khích, động viên để thu hút đội ngũ làm công tác tại y tế cơ sở, cơ sở y tế dự phòng và một số chuyên ngành khó thu hút nhân lực, đặc thù”- chuyên gia này bày tỏ.
Bộ Y tế đề xuất phân cấp giải quyết 4 thủ tục hành chính lĩnh vực an toàn thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế cho Cục An toàn thực phẩm…
Bộ Y tế đang lấy ý kiến đối với dự thảo Thông tư quy định việc phân cấp giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Y tế.
Dự thảo Thông tư này đang lấy ý kiến nhân dân trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, dự kiến áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động liên quan đến an toàn thực phẩm tại Việt Nam.
Bộ Y tế đề xuất phân cấp giải quyết 4 thủ tục hành chính lĩnh vực an toàn thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế cho Cục An toàn thực phẩm…
Theo đó, Bộ Y tế dự thảo Phân cấp giải quyết 4 thủ tục hành chính lĩnh vực an toàn thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế cho Cục An toàn thực phẩm
Dự thảo nêu rõ, phân cấp giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực an toàn thực phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế cho Cục An toàn thực phẩm gồm:
1- Đăng ký nội dung quảng cáo đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
2- Đăng ký bản công bố sản phẩm nhập khẩu đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe, phụ gia thực phẩm hỗn hợp có công dụng mới, phụ gia thực phẩm không thuộc trong danh mục phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm hoặc không đúng đối tượng sử dụng do Bộ Y tế quy định
3- Đăng ký bản công bố sản phẩm sản xuất trong nước đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe, phụ gia thực phẩm hỗn hợp có công dụng mới, phụ gia thực phẩm không thuộc trong danh mục phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm hoặc không đúng đối tượng sử dụng do Bộ Y tế quy định.
4- Cấp, cấp lại Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đạt yêu cầu Thực hành sản xuất tốt (GMP) thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh vừa ký hợp tác với Trung tâm Nghiên cứu ung thư Nga về nhận chuyển giao công nghệ lõi, kỹ thuật chẩn đoán – điều trị ung thư.
Bộ trưởng Y tế Liên bang Nga Murashko Mikhail Albertovich, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan, đại diện Đại sứ quán và lãnh đạo các đơn vị y tế hai nước cùng chứng kiến Lễ ký kết hợp tác – Ảnh: VGP
Hợp tác nghiên cứu, ứng dụng phương pháp mới trong điều trị ung thư
Dưới sự chứng kiến của Bộ trưởng Y tế Liên bang Nga Mikhail Albertovich Murashko và Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh vừa ký kết triển khai hợp tác với Trung tâm Nghiên cứu y học Quốc gia về ung thư hàng đầu của Liên bang Nga trong nghiên cứu, thực hành và ứng dụng các phương pháp mới trong chẩn đoán, điều trị ung thư.
Sự kiện này là một trong những bước hiện thực hóa thỏa thuận hợp tác đã ký vào tháng 5 tại Liên bang Nga giữa VNVC – Bệnh viện đa khoa Tâm Anh và Quỹ Đầu tư trực tiếp của Nga (RDIF), trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc của Tổng bí thư Tô Lâm, theo lời mời của Tổng thống Nga V.Putin.
Theo đó, hai bên sẽ tiến hành các hoạt động hợp tác chuyên sâu trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine và thuốc sinh học tiên tiến. Nội dung ký kết chủ yếu gồm trao đổi kinh nghiệm thực tế trong ứng dụng công nghệ hiện đại, phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị các bệnh ung thư; tổ chức và tiến hành các hội nghị khoa học; phát triển hợp tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực ung thư, phẫu thuật ung thư, xạ trị, hóa xạ trị…
Ngay sau sự kiện, hai bên sẽ chính thức triển khai các hoạt động trao đổi các thông tin khoa học, thực hành và huấn luyện đào tạo các phương pháp chẩn đoán và điều trị ung thư hiện đại hàng đầu với hiệu quả cao.
Siêu máy CT Somatom Force VB30 vượt qua giới hạn lát cắt, công cụ đắc lực tầm soát phát hiện sớm ung thư đang có mặt tại Hệ thống BVĐK Tâm Anh – Ảnh: VGP
Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng kế hoạch triển khai
Tại buổi ký kết, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, các thỏa thuận sẽ mở ra nhiều chương trình hợp tác thiết thực, đặc biệt trong điều trị ung thư bằng công nghệ tiên tiến cũng như sản xuất vaccine và sinh phẩm y tế.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan khẳng định, Bộ Y tế sẽ cùng hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh khẩn trương nghiên cứu, xây dựng kế hoạch triển khai và đưa các thỏa thuận hợp tác đi vào thực tiễn. Bà đồng thời cũng đánh giá cao vai trò tiên phong và năng lực hội nhập quốc tế mạnh mẽ của Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh để thành tựu y học hiện đại được ứng dụng phục vụ người dân.
Bộ trưởng Bộ Y tế Liên bang Nga Murashko Mikhail Albertovich cũng cho biết, hệ thống y tế Nga hiện sở hữu nhiều công nghệ khác nhau trong điều trị ung bướu, cấy ghép tạng, cũng như những giải pháp công nghệ phát triển hệ thống y tế nói chung, từ cơ bản đến cao cấp nhất.
“Sự kiện ký kết hợp tác là bước tiến quan trọng, góp phần hiện thực hóa những thỏa thuận mà lãnh đạo hai nước đã đạt được, hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe người dân tốt hơn”, ông Murashko đánh giá.
Hợp tác chuyển giao công nghệ giữa Liên bang Nga và Việt Nam mang hy vọng cho người bệnh ung thư có thêm cơ hội tiếp cận thuốc mới. Đồng thời, các nhà khoa học, chuyên gia, bác sĩ tại Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận trực tiếp với công nghệ lõi, học hỏi từ các chuyên gia hàng đầu thế giới, qua đó nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực nghiên cứu.
Sự kiện đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh ung thư vẫn đang là gánh nặng trên toàn cầu và tại Việt Nam. Theo thống kê của Globocan 2022, mỗi năm, nước ta hơn 180.400 ca mắc mới và 120.100 ca tử vong do ung thư, trong đó phần lớn phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, bệnh nặng, gây khó khăn cho các phương pháp điều trị hiện có và chi phí cao cho các thuốc đặc trị.
Hợp tác giữa Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh và Trung tâm Nghiên cứu y học Quốc gia về xạ trị Liên bang Nga đánh dấu một bước tiến mới trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị ung thư của Việt Nam.
Trong đó, đặc biệt chú trọng việc chuyển giao toàn diện các công nghệ lõi, các phát minh quan trọng về vaccine, thuốc, kỹ thuật chẩn đoán và điều trị ung thư từ Liên bang Nga. Từ đó giúp Việt Nam không chỉ có cơ hội nhanh chóng tiếp cận với các thuốc, phương pháp điều trị mới mà còn tự chủ sản xuất thuốc và vaccine công nghệ mới, góp phần chủ động cung ứng, giảm chi phí điều trị, nâng cao chất lượng điều trị và chất lượng sống cho người bệnh.
Cũng trong sự kiện, nhà máy Vaccine và sinh phẩm VNVC ký kết cùng Công ty dược phẩm Medsintez – Liên bang Nga về chuyển giao công nghệ, đào tạo, sản xuất vaccine và thuốc sinh học thế hệ mới. Ngay sau lễ ký kết, các chuyên gia hàng đầu của Trung tâm Nghiên cứu y học Quốc gia về xạ trị Liên bang Nga, Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh và Công ty Vaccine Việt Nam (VNVC) sẽ có các đợt làm việc trực tiếp tại Nga và Việt Nam, để tiếp nhận chuyển giao công nghệ và thiết bị, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn, đào tạo chuyên môn và chuẩn bị các điều kiện cần thiết với tiến độ nhanh nhất có thể, nỗ lực sớm đưa các thành tựu y khoa tiến bộ của Nga đến với người dân Việt Nam.
Trung tâm Nghiên cứu y học Quốc gia về xạ trị Liên bang Nga là viện nghiên cứu về ung thư đầu tiên ở Nga và châu Âu với lịch sử hơn 100 năm. Trung tâm đi đầu trong nghiên cứu, phát minh, ứng dụng các công nghệ mới nhất trong lĩnh vực điều trị ung thư như phẫu thuật, can thiệp ít xâm lấn, xạ trị proton, phóng xạ tắc mạch điều trị khối u, xạ – hóa trị kết hợp, vaccine…
Đây là một trong những hợp tác chiến lược giúp Việt Nam nói chung và Hê thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh nói riêng từng bước xây dựng phát triển trung tâm nghiên cứu, sản xuất y học công nghệ cao tầm cỡ trong khu vực.
Nhà máy Vaccine và sinh phẩm VNVC và Công ty dược phẩm Medsintez (Liên bang Nga) vừa ký kết hợp tác chuyển giao công nghệ sản xuất toàn diện các loại thuốc sinh học thế hệ mới phục vụ điều trị nhiều bệnh cấp tính và mạn tính nguy hiểm.
Nhà máy Vaccine và sinh phẩm VNVC và Công ty dược phẩm Medsintez (Liên bang Nga) ký kết hợp tác ngày 12/9/2025 – Ảnh: VGP
Lễ ký kết vừa diễn ra tại Hà Nội, dưới sự chứng kiến của Bộ trưởng Bộ Y tế Liên bang Nga Mikhail Murashko và Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam Đào Hồng Lan.
Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ Y tế Liên bang Nga Mikhail Murashko bày tỏ sự tin tưởng vào hợp tác giữa Việt Nam và Nga trong ngành y tế – đây là con đường đổi mới, cùng có lợi, hướng đến mục tiêu cao nhất là bảo vệ sức khỏe nhân dân và nâng cao chất lượng ngành y tế.
Bộ trưởng Đào Hồng Lan đã bày tỏ cảm ơn sự hỗ trợ của Chính phủ và Bộ Y tế Nga trong nhiều thập kỷ qua đã hỗ trợ Việt Nam trong đào tạo bác sĩ, cung cấp thuốc men, vaccine, kỹ thuật hiện đại và xây dựng cơ sở y tế.
Bộ trưởng cũng bày tỏ sự vui mừng khi chứng kiến hợp tác giữa các viện nghiên cứu, trung tâm y học công nghệ cao và các đơn vị uy tín trong lĩnh vực y khoa của 2 nước sẽ mở ra nhiều chương trình hợp tác thiết thực, đặc biệt trong điều trị ung thư bằng công nghệ tiên tiến cũng như sản xuất thuốc, vaccine và sinh phẩm y tế – là những nhu cầu cấp bách không chỉ của Việt Nam, của Nga mà còn của toàn cầu.
Nhiều danh mục thuốc sinh học tiên tiến sẽ được chuyển giao sản xuất tại Việt Nam – Ảnh: VGP
Nhiều danh mục thuốc sinh học tiên tiến sẽ được chuyển giao sản xuất tại Việt Nam
Trước đó, tháng 5/2025 tại thủ đô Moscow, dưới sự chứng kiến của Tổng thống Nga Putin và Tổng Bí thư Tô Lâm, VNVC đã ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện với Quỹ Đầu tư trực tiếp của Nga (RDIF) – là đại diện cao nhất của các cơ quan nghiên cứu, sản xuất dược phẩm của Nga cũng như các cơ quan y tế khác. Chỉ sau 5 tháng, VNVC đã tiến tới thỏa thuận chuyển giao công nghệ toàn diện với Medsintez – công ty dược phẩm lớn của Nga.
Ngay sau ký kết, Medsintez và VNVC sẽ tiến hành các bước chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc sinh học tiên tiến của Medsintez tại Nhà máy Vaccine và sinh phẩm VNVC, hợp tác nghiên cứu phát triển và nghiên cứu lâm sàng các loại thuốc và vaccine mới, phân phối các sản phẩm dược phẩm chất lượng cao của Medsintez tại Việt Nam và các quốc gia Asean.
Dự kiến, trong thời gian tới, nhiều danh mục thuốc sinh học tiên tiến của Medsintez sẽ được chuyển giao sản xuất tại Nhà máy Vaccine và sinh phẩm VNVC, với các tiêu chuẩn quốc tế cao cấp, như Albumin tái tổ hợp, Insulin tái tổ hợp, bút tiêm Insulin dùng một lần và tái sử dụng, thuốc điều trị đái tháo đường (liraglutide, semaglutide), thuốc chống đông máu Heparin (phòng và điều trị các biến chứng huyết khối gây tắc mạch máu dẫn đến đột quỵ, nhồi máu cơ tim, thuyên tắc phổi), thuốc kháng virus Triazavirin, hormone kích thích nang trứng (ứng dụng trong điều trị vô sinh)…
Đặc biệt, hai bên sẽ trao đổi về việc phối hợp nghiên cứu lâm sàng thuốc kháng virus Triazavirin trong điều trị sốt xuất huyết Dengue, căn bệnh gây hàng trăm nghìn ca mắc và hàng chục ca tử vong mỗi năm tại Việt Nam.
Ông Ngô Chí Dũng, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Nhà máy Vaccine và sinh phẩm VNVC cho biết, hợp tác với Medsintez là một trong nhiều hợp tác chuyên sâu mà VNVC cũng như các thành viên trong hệ sinh thái là Viện nghiên cứu và Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh ký kết với các viện nghiên cứu, các bệnh viện và các hãng dược phẩm lớn của Nga.
“Các hợp tác này đồng bộ với mục tiêu mở rộng hợp tác quốc tế sâu rộng của chúng tôi với các trung tâm y học lớn trên thế giới nhằm tiếp cận sớm với các thuốc, vaccine và công nghệ khám chữa bệnh, phòng bệnh mới, phục vụ người dân Việt Nam và du khách quốc tế khám chữa bệnh tại Việt Nam”, ông Ngô Chí Dũng nhấn mạnh.
Sự kiện VNVC ký kết với Medsintez không chỉ là bước tiến quan trọng của VNVC trong tiến trình hợp tác và hội nhập quốc tế, mà còn khẳng định năng lực tiếp nhận, làm chủ các công nghệ tiên tiến hàng đầu thế giới của doanh nghiệp Việt Nam. Hợp tác này từng bước rút ngắn lộ trình làm chủ công nghệ, giảm chi phí nhập khẩu, hướng tới tự chủ nguồn cung trong nước và tiến tới xuất khẩu, qua đó khẳng định vị thế là trung tâm sản xuất và cung ứng vaccine – sinh phẩm uy tín của khu vực ASEAN.
Dự kiến, cuối năm 2027, Nhà máy Vaccine và sinh phẩm VNVC sẽ bắt đầu sản xuất các vaccine thế hệ mới và thuốc sinh học tiên tiến của nhiều quốc gia trên thế giới ngay tại Việt Nam.
Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân với những mục tiêu phát triển hệ thống y tế Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, vừa được ban hành như một luồng gió mới, mang theo sức sống mãnh liệt cho ngành y tế nói chung và cộng đồng y tế tư nhân nói riêng.
Nghị quyết 72 tạo đột phá chiến lược cho phát triển y tế tư nhân
Là một người hoạt động hơn 20 năm trong lĩnh vực y tế, với vai trò Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Bệnh viện tư nhân Việt Nam và thành viên Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ, GS Nguyễn Văn Đệ bày tỏ sự phấn khởi khi đón nhận văn kiện quan trọng này.
Theo ông, Nghị quyết 72-NQ/TW không chỉ là kết tinh của trí tuệ tập thể Đảng ta dưới sự chỉ đạo trực tiếp, sâu sát của Tổng Bí thư Tô Lâm, mà còn phản ánh sự quan tâm đặc biệt, quyết liệt của các thành viên Chính phủ, sự sát sao của Thường trực Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tận tâm, tận lực để văn kiện này trở thành hiện thực, tạo động lực mạnh mẽ cho y tế tư nhân phát triển vượt bậc.
Đặc biệt, cộng đồng y tế tư nhân Việt Nam rất vui mừng, phấn khởi khi đón nhận nghị quyết này như một luồng sinh khí mới, khơi dậy khí thế, động lực, lòng quyết tâm và sự hưng phấn để yên tâm đầu tư, dấn thân vào sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Nghị quyết ra đời trong bối cảnh đặc biệt, tạo đà cho Việt Nam cất cánh
Nghị quyết 72-NQ/TW ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, khi Đảng ta đang triển khai đồng bộ “Bộ tứ nghị quyết trụ cột” nhằm tạo đà cho Việt Nam cất cánh, vươn mình ra thế giới. Đó là Nghị quyết 57-NQ/TW về thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 59-NQ/TW về chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân và Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật.
Gần đây nhất, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo đã bổ sung thêm sức mạnh, tạo nên một hệ thống nghị quyết chiến lược, liên kết chặt chẽ, dưới sự định hướng khoa học của Đảng. Trong dòng chảy cách mạng ấy, Nghị quyết 72-NQ/TW nổi lên như một trụ cột quan trọng, không chỉ tập trung vào y tế mà còn hòa quyện hài hòa với các lĩnh vực khác, góp phần xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước. Với những định hướng đột phá, đặc biệt trong việc tháo gỡ khó khăn cho y tế tư nhân, nghị quyết đã mang lại niềm tin mãnh liệt, khơi dậy tinh thần hăng hái của cộng đồng y tế tư nhân trong việc đóng góp vào sự nghiệp y tế quốc gia.
Lộ trình rõ ràng, khả thi
GS Nguyễn Văn Đệ, Chủ tịch Hiệp hội Bệnh viện tư nhân Việt Nam – Ảnh: VGP/HM
Xét về mặt khoa học và chiến lược, Nghị quyết 72-NQ/TW đã phân tích sâu sắc thực trạng hệ thống y tế Việt Nam, chỉ rõ những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, bất cập tồn tại, trong đó có những rào cản lớn đối với sự phát triển của y tế tư nhân.
Bên cạnh việc nâng cao năng lực phòng ngừa, kiểm soát dịch bệnh, hoàn thiện hệ thống y tế cơ sở, Nghị quyết đã vạch ra lộ trình rõ ràng, khả thi đến năm 2030 và tầm nhìn 2045, với những chính sách mang tính đột phá nhằm tháo gỡ những vướng mắc lâu nay.
Đặc biệt, Nghị quyết tập trung vào vai trò của y tế tư nhân như một động lực then chốt, tạo điều kiện thuận lợi để khu vực này đầu tư, mở rộng, góp phần giảm tải cho y tế công lập và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Với cộng đồng y tế tư nhân, GS Nguyễn Văn Đệ cho rằng, đây là cơ hội vàng để vượt qua những trở ngại lớn, từ hạn chế về đất đai, tài chính đến các rào cản pháp lý, để vươn mình phát triển mạnh mẽ.
7 điểm đột phá trong tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của y tế tư nhân
Một trong những điểm nhấn quan trọng nhất của Nghị quyết 72-NQ/TW là việc đưa ra các cơ chế, chính sách cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn lớn nhất mà y tế tư nhân đang đối mặt, đồng thời tạo động lực mạnh mẽ để khu vực này phát triển bền vững. Những chính sách này không chỉ mang tính đột phá mà còn thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng đối với vai trò của y tế tư nhân trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Nghị quyết tập trung vào vai trò của y tế tư nhân như một động lực then chốt, tạo điều kiện thuận lợi để khu vực này đầu tư, mở rộng, góp phần giảm tải cho y tế công lập và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
Trước hết, việc ưu tiên quỹ đất sạch, đất thu hồi từ các dự án, cùng với việc cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang đất y tế, là một bước tiến lớn, giải quyết triệt để vấn đề đất đai – một trong những rào cản lớn nhất đối với các nhà đầu tư y tế tư nhân kéo dài, dai dẳng trong suốt nhiều thập kỷ qua.
Trong bối cảnh quỹ đất tại các đô thị lớn ngày càng khan hiếm, chính sách này sẽ giúp các bệnh viện tư nhân tiếp cận nguồn lực đất đai một cách dễ dàng hơn, đồng thời tạo điều kiện để xây dựng các cơ sở y tế hiện đại, quy mô lớn, tạo nền tảng quan trọng để phát triển các bệnh viện chuyên sâu, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, đồng thời giảm áp lực cho hệ thống y tế công lập.
Thứ hai, việc cho phép áp dụng cơ chế giải phóng mặt bằng nhanh để phát triển cơ sở chăm sóc sức khỏe là một quyết định trí tuệ, sáng kiến mang tính đột phá, giúp rút ngắn thời gian triển khai các dự án y tế tư nhân. Trước đây, quy trình giải phóng mặt bằng thường kéo dài, phức tạp, gây chậm trễ và tăng chi phí đầu tư. Với cơ chế mới, các nhà đầu tư y tế tư nhân có thể triển khai dự án một cách nhanh chóng, hiệu quả, từ đó sớm đưa vào hoạt động các cơ sở y tế chất lượng cao, phục vụ cộng đồng. Điều này đã thể hiện rõ sự quyết tâm của Đảng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, khơi dậy tinh thần hăng hái của cộng đồng y tế tư nhân trong việc tham gia vào sự nghiệp y tế quốc gia.
Thứ ba, chính sách không thu tiền sử dụng đất, giảm hoặc miễn tiền thuê đất đối với cơ sở y tế tư nhân phi lợi nhuận là một nội dung mang tính nhân văn sâu sắc. Đối với các cơ sở y tế tư nhân không vì mục tiêu lợi nhuận, đây là sự hỗ trợ thiết thực, giúp giảm đáng kể chi phí vận hành, từ đó tạo điều kiện để họ cung cấp dịch vụ y tế với giá cả hợp lý, tiếp cận được với nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp, điều này đã rõ nét cho định hướng của Đảng trong việc phát triển y tế toàn diện, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Thứ tư, việc không áp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với cơ sở y tế tư nhân phi lợi nhuận, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, là một chính sách đột phá, tạo động lực mạnh mẽ để khu vực này phát triển. Trước đây, gánh nặng thuế đã là một rào cản lớn khiến nhiều tổ chức y tế tư nhân gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động. Với chính sách này, các cơ sở y tế phi lợi nhuận có thể tái đầu tư toàn bộ nguồn lực vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ, mua sắm trang thiết bị hiện đại và đào tạo nhân lực, góp phần nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Thứ năm, việc cho phép áp dụng hình thức thuê công trình thuộc sở hữu nhà nước đối với cơ sở y tế tư nhân theo quy định là một sáng kiến sáng tạo, giúp tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng sẵn có của nhà nước, góp phần giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu cho các nhà đầu tư tư nhân, đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở y tế tư nhân nhanh chóng đi vào hoạt động, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa, nơi nguồn lực y tế còn hạn chế. Điều này thể hiện sự linh hoạt và tầm nhìn xa của Đảng trong việc huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp y tế.
Thứ sáu, việc huy động nguồn lực xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt ở các lĩnh vực đầu tư, nghiên cứu, sản xuất thuốc – vaccine – thiết bị y tế, kiểm định – kiểm nghiệm – kiểm chuẩn, là một cơ chế mang tính đột phá, mở ra cơ hội lớn cho y tế tư nhân.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhu cầu về thuốc, vaccine và thiết bị y tế chất lượng cao ngày càng tăng và y tế tư nhân có thể đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu này. Chính sách này sẽ khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu khoa học, thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp y tế trong nước, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, đồng thời tạo ra hàng nghìn việc làm chất lượng cao.
Cuối cùng, việc khuyến khích phát triển các bệnh viện tư nhân có quy mô lớn, kỹ thuật chuyên sâu ngang tầm quốc gia và quốc tế là một định hướng chiến lược, đánh dấu sự quan tâm đặc biệt, đánh giá cao những đóng góp và sự chuyển mình mạnh mẽ của y tế tư nhân Việt Nam.
GS Nguyễn Văn Đệ nhấn mạnh, trong bối cảnh các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc,… đã phát triển mạnh các bệnh viện tư nhân chất lượng cao, thu hút bệnh nhân quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng để đi theo con đường này. Những bệnh viện tư nhân quy mô lớn sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ trong nước, thúc đẩy quảng bá hình ảnh y tế Việt Nam ra thế giới, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể, đồng thời tạo động lực cho cộng đồng y tế tư nhân đầu tư mạnh mẽ hơn.
Cộng đồng y tế tư nhân cam kết quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết 72
Chủ tịch Hiệp hội Y tế tư nhân cũng khẳng định, những chính sách trên đã thể hiện tư duy đổi mới, sáng tạo của Đảng trong việc phát triển y tế tư nhân. Đối với cộng đồng y tế tư nhân, đây là dấu mốc lịch sử, khơi dậy niềm tin và sự hưng phấn để đầu tư dài hạn.
Từ góc độ thuyết phục khoa học, Nghị quyết 72-NQ/TW vừa là văn kiện chính trị vừa là tài liệu chiến lược dựa trên cơ sở dữ liệu thực tiễn. Theo các nghiên cứu quốc tế, các nước phát triển như Mỹ, Đức, Nhật Bản đều dựa vào y tế tư nhân để nâng cao hiệu quả hệ thống, với tỷ lệ đầu tư tư nhân chiếm tới 50-60% tổng chi phí y tế.
Tại Việt Nam, theo quan điểm cá nhân của GS Nguyễn Văn Đệ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, dân số trẻ, chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm, để đạt được mục tiêu đến năm 2030, 100% dân số được bao phủ bảo hiểm y tế, giảm tỷ lệ tử vong do bệnh không lây nhiễm, nâng cao tuổi thọ trung bình; người dân được miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi BHYT theo lộ trình. …
Đối với cộng đồng y tế tư nhân, những định hướng này là nguồn động lực mạnh mẽ, khơi dậy tinh thần hăng hái, quyết tâm đầu tư để cùng đất nước đạt được những thành tựu rực rỡ.
Cộng đồng y tế tư nhân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, cam kết thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 72-NQ/TW, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng.
“Chúng tôi sẽ đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất, công nghệ, đào tạo nhân lực, đảm bảo dịch vụ y tế chất lượng, giá cả phải chăng, hướng tới lợi ích của nhân dân. Đồng thời, chúng tôi kêu gọi các cấp, các ngành triển khai đồng bộ các nghị quyết trụ cột, tạo môi trường thuận lợi để y tế tư nhân phát triển, góp phần thực hiện khát vọng Việt Nam hùng cường”, GS Đệ nhấn mạnh
Nghị quyết 72-NQ/TW đã thể hiện rõ đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, với những định hướng đột phá tháo gỡ khó khăn cho y tế tư nhân. Đây là động lực to lớn để y tế tư nhân vươn mình, đóng góp vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Toàn Đảng, toàn dân ta hãy đoàn kết, hành động quyết liệt để biến nghị quyết thành hiện thực, đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu dưới sự lãnh đạo vĩ đại của Đảng, với tinh thần hăng hái, quyết tâm của cộng đồng y tế tư nhân.
Thành tựu đột phá trong sản phụ khoa tại Việt Nam trong gần 1 năm trở lại đây là kỹ thuật sóng siêu âm hội tụ cường độ cao (US – HIFU), cho phép tiêu diệt khối u mà không cần phẫu thuật, gây mê sâu hay dao mổ. Các bác sĩ của Việt Nam đã làm chủ kỹ thuật này, giúp người bệnh bảo tồn được cơ quan sinh sản và khả năng sinh sản.
GS.TS Nguyễn Viết Tiến tư vấn cho người bệnh – Ảnh: VGP/HM
Mỗi năm có đến hàng chục nghìn phụ nữ Việt Nam phải đối mặt với u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung. Những bệnh lý phụ khoa này không chỉ làm giảm chất lượng cuộc sống mà còn là một trong những nguyên nhân phổ biến gây vô sinh hiếm muộn, để lại những hệ lụy âm thầm cho chất lượng dân số.
Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng thành công US-HIFU – kỹ thuật điều trị tiêu diệt khối u không xâm lấn, đặc biệt người phụ nữ sau khi điều trị hoàn toàn có thể lại có thai tự nhiên, thậm chí một số người buộc phải làm thụ tinh trong ống nghiệm cũng thực hiện thuận lợi hơn. Kỹ thuật này đang được đánh giá là thành tựu lớn đối với ngành sản phụ khoa ở nước ta.
Hành trình đưa kỹ thuật “mổ lấy u không dùng dao” về Việt Nam
Sau hơn hai thập kỷ được ứng dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia phát triển, đến cuối năm 2024, kỹ thuật US-HIFU chính thức có mặt tại Việt Nam. Đây là kỹ thuật điều trị các khối u bằng sóng siêu âm hội tụ cường độ cao dưới hướng dẫn của siêu âm.
Kỹ thuật này được coi là “cuộc cách mạng trong điều trị không xâm lấn” của y học nhờ khả năng xử lý hiệu quả các khối u mà không cần rạch mổ, không gây chảy máu, không để lại sẹo.
Gần 300 ca đã áp dụng kỹ thuật US – HIFU “mổ lấy u không dùng dao” tại Việt Nam – Ảnh: VGP/HM
Cơ chế của kỹ thuật này dựa trên việc tập trung năng lượng sóng siêu âm vào vùng mô bệnh, làm nhiệt độ tăng cao tới 100°C, gây biến tính protein và làm mô mục tiêu hoại tử đông không hồi phục. Các khối u sau đó sẽ dần tự tiêu theo thời gian. Người bệnh hồi phục nhanh và có thể xuất viện ngay trong ngày.
Nhận thấy giá trị y học sâu sắc của kỹ thuật này, GS.TS.BS Nguyễn Viết Tiến, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng Y khoa Quốc gia, Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam, đã dành nhiều tâm huyết để tìm hiểu, tiếp cận và chuyển giao thành công kỹ thuật US-HIFU về Việt Nam.
Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn khẳng định, sự xuất hiện của US-HIFU là dấu mốc quan trọng nâng tầm y học Việt Nam.
Các bác sĩ của Việt Nam đã làm chủ được kỹ thuật US – HIFU – Ảnh: VGP/HM
Đến nay, hàng trăm bệnh nhân đã được điều trị khối u bằng kỹ thuật US-HIFU, bao gồm các trường hợp: u xơ tử cung, bệnh tuyến cơ tử cung, ung thư gan, u vú.
Tất cả bệnh nhân sau điều trị đều không có biến chứng, phục hồi nhanh; thể tích khối u giảm rõ rệt (lên tới hơn 80% với u xơ tử cung và bệnh tuyến cơ tử cung); người bệnh cải thiện triệu chứng rong kinh, chèn ép, đau bụng kinh; có thể đi lại, sinh hoạt và làm việc bình thường sau chưa đầy 24 giờ can thiệp.
Đặc biệt, nhiều trường hợp mang thai tự nhiên và thực hiện IVF thành công sau điều trị, chất lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt.
Kỹ thuật thay đổi diện mạo ngành sản phụ khoa
Chị Phạm Thị Huyền Trang (30 tuổi, quê Ninh Bình) mắc đa u xơ tử cung (u lớn nhất kích thước 46x44x34mm), là một trong những bệnh nhân đầu tiên điều trị khối u bằng kỹ thuật US-HIFU (được triển khai ứng dụng tại Bệnh viện Phụ sản Thiện An).
Bệnh nhân có tiền sử đã sảy thai, khối u gây đau đớn, kéo dài chu kỳ kinh nguyệt và rất mong có con.
Sau khi tìm đến bệnh viện để thăm khám và tìm hướng điều trị, tháng 11/2024, chị có chỉ định điều trị đa u xơ tử cung bằng kỹ thuật US-HIFU.
Chỉ chưa đầy một ngày sau điều trị, chị đã có thể đi lại, sinh hoạt như bình thường. Kết quả tái khám sau 1 tháng cho thấy, khối u xơ gần 5cm đã giảm kích thước còn 2cm, giảm đau bụng kinh. Sau 3 tháng, chị có thai tự nhiên mà không cần đến bất kỳ phương pháp hỗ trợ sinh sản nào.
Hiện tại, chị đang được theo dõi, quản lý thai nghén tại bệnh viện, dự sinh vào tháng 12/2025.
Người bệnh được điều trị bằng kỹ thuật US – HIFU – Ảnh: VGP/HM
Một trường hợp khác là bệnh nhân nữ 43 tuổi, nhiều năm “sống chung” với đa u xơ tử cung và đã trải qua 5 lần thực hiện IVF tại nhiều cơ sở y tế khác nhau nhưng đều thất bại. Khi được tư vấn điều trị bằng US-HIFU để xử lý khối u trước khi tiếp tục làm các biện pháp hỗ trợ sinh sản, điều kỳ diệu lại xảy ra. Chỉ một tháng sau điều trị, bệnh nhân mang thai tự nhiên.
Theo GS.TS.BS Nguyễn Viết Tiến, với kỹ thuật US-HIFU, cơ tử cung của phụ nữ sau điều trị vẫn giữ được độ chắc khỏe, không để lại sẹo như phẫu thuật mổ hở hay mổ nội soi, nhờ đó hạn chế nguy cơ vỡ tử cung trong thai kỳ. Thực tế, trên thế giới đã ghi nhận hàng vạn trường hợp mang thai, sinh con sau khi điều trị u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung bằng US-HIFU và chưa có ca nào gặp biến chứng vỡ tử cung.
Chia sẻ về một số điểm vượt trội của kỹ thuật này, GS Nguyễn Viết Tiến cho biết, đây là kỹ thuật không phải mổ mở, bệnh nhân không đau nhiều mà cả khối u tiêu rất nhanh, thậm chí tiêu diệt cùng một lúc nhiều khối u.
Đặc biệt, có trường hợp sau khi mổ mở và bóc tách những khối u to, những u nhỏ có thể lại phát triển. Nhưng đối với US – HIFU, sau khi đã diệt các khối u to, những u nhỏ bên cạnh cũng bị ảnh hưởng, cơ hội phát triển rất hiếm.
Riêng đối với lạc nội mạc tử cung trong cơ tử cung, GS Nguyễn Viết Tiến cho biết, bệnh lý này điều trị rất khó khăn và gây vô sinh, hiếm muộn. Nếu người bệnh có thai thì thai dễ bị sảy. Hiện nay, các thuốc điều trị bệnh này chỉ là điều trị triệu chứng, không điều trị được căn nguyên. Trong đó, các thuốc giảm đau có thể gây hậu quả rong kinh, rong huyết, gây đau đớn theo chu kỳ kinh, làm chất lượng cuộc sống vô cùng khó khăn. Không ít người phải chấp nhận mổ và cắt bỏ tử cung. Như vậy, họ không còn cơ hội có con.
Tuy nhiên, khi triển khai kỹ thuật US-HIFU, đa số các ca bệnh không còn cảm giác đau, có người đau phảng phất, nhẹ nhàng, không phải dùng thuốc. Và quan trọng hơn nữa là các khối u bị teo nhỏ, tiêu dần, bệnh nhân hoàn toàn có thể có thai tự nhiên sau đó.
Đến nay, đã có 4 ca sau khi phẫu thuật bằng kỹ thuật US – HIFU đã mang thai tự nhiên, 2 ca sau khi điều trị u cũng đã chuyển phôi thụ tinh trong ống nghiệm thành công và có thai. Trước đây, với những trường hợp này, rất khó để can thiệp có thai tự nhiên.
Kỹ thuật US-HIFU có thể tiêu diệt nhiều khối u cùng một lúc – Ảnh: VGP/HM
Kết hợp điều trị hiệu quả nhiều khối u
Hiện tại, các ca bệnh chủ yếu điều trị ở Bệnh viện Phụ sản Thiện An là u lạc nội mạc tử cung, u xơ tử cung, u lạc nội mạc ở thành bụng, u xơ vú, u gan. Thời gian tới, Bệnh viện sẽ triển khai thêm về điều trị ung thư gan, ung thư tụy và xương đối với một số trường hợp mắc u ác tính, u kháng thuốc, không thể mổ mở, nếu sau khi thăm khám có thể làm được bằng kỹ thuật US – HIFU. Khi đó, khối u sẽ bị diệt, có thể là khối u nguyên phát hoặc thứ phát, giúp bệnh nhân giảm đau nhiều.
Bệnh viện đang có kế hoạch phối hợp cùng với Bệnh viện K và Bệnh viện Ung bướu Hà Nội để giúp người bệnh có thêm lựa chọn và được áp dụng phương pháp điều trị hiệu quả này.
GS Nguyễn Viết Tiến cũng khuyến cáo, không phải tất cả các khối u đều có thể triển khai bằng phương pháp US – HIFU, một số u xơ và u lạc nội mạc tử cung mà có cuống hoặc u bị ruột che phủ, không đẩy được ruột ra nếu sử dụng phương pháp này sẽ không chính xác, gây tổn thương, thậm chí nguy hiểm. Những trưởng hợp này chiếm khoảng 10% là không thể làm được US – HIFU.
Trường hợp này phải mổ mở hoặc nội soi, cũng có trường hợp phải kết hợp cả mổ mở, mổ nội soi và US – HIFU.
“Nếu phối hợp với các phương pháp khác như hóa trị, xạ trị thì US-HIFU là một lựa chọn khá hợp lý để tăng cường khả năng điều trị và kết quả điều trị cho bệnh nhân ung thư”, GS.TS.BS Nguyễn Viết Tiến cho biết.
Sự hiện diện của kỹ thuật US-HIFU tại Việt Nam đánh dấu bước ngoặt quan trọng của ngành sản phụ khoa nói riêng và ngành y tế nước nhà nói chung. Với việc tiếp tục phát triển và ứng dụng rộng rãi trong tương lai, nhiều người bệnh sẽ có thêm lựa chọn tối ưu để điều trị bệnh, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Bộ Y tế đặt mục tiêu đến năm 2030, tối thiểu 5 địa phương trọng điểm (Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Khánh Hòa) sẽ triển khai mô hình du lịch y tế tích hợp giữa bệnh viện – khách sạn – khu nghỉ dưỡng – lữ hành; cùng đó phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao thu hút người nước ngoài…
TS.BS Hà Anh Đức – Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế cho biết, Bộ Y tế đang lấy ý kiến dự thảo Đề án phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao, thúc đẩy du lịch y tế, thu hút người nước ngoài và người Việt Nam có khả năng chi trả giai đoạn 2025-2030.
Từ đó, từng bước đáp ứng và thu hút người nước ngoài khám, chữa bệnh tại Việt Nam; đồng thời giảm tình trạng người Việt Nam ra nước ngoài khám, chữa bệnh. Nhiều nước đã thành công với mô hình du lịch y tế như Thái Lan, Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia…
Ứng dụng robot trong phẫu thuật ung thư tại Bệnh viện K.
Y tế Việt Nam có nhiều lợi thế để ‘hút’ người nước ngoài khám chữa bệnh
Đội ngũ bác sĩ Việt Nam đã làm chủ nhiều kỹ thuật phức tạp ngang tầm thế giới như mổ robot, nội soi, ghép tạng, điều trị ung bướu, bệnh truyền nhiễm và các phẫu thuật chuyên sâu về mắt, tai mũi họng, tim mạch… Các bác sĩ được đào tạo bài bản trong và ngoài nước, có tay nghề cao, được đồng nghiệp quốc tế đánh giá tích cực.
Một số kỹ thuật như mổ nội soi tim, u tuyến giáp đã được nước ngoài đến học hỏi. Bên cạnh đó, y học cổ truyền Việt Nam có lịch sử lâu đời, với các danh y nổi tiếng như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông và các phương pháp điều trị cổ truyền như châm cứu, bấm huyệt… đang dần được quốc tế công nhận và ứng dụng.
Trong 5 năm gần đây, chất lượng khám, chữa bệnh đã được cải thiện rõ rệt. Các bệnh viện tích cực triển khai đổi mới phong cách phục vụ, nâng cao y đức và thái độ ứng xử, hướng đến sự hài lòng của người bệnh.
Chất lượng chuyên môn lâm sàng và cận lâm sàng cũng từng bước nâng cao, đi kèm với việc áp dụng rộng rãi bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện. Hoạt động chuyển giao kỹ thuật từ bệnh viện hạt nhân cho bệnh viện vệ tinh đang phát huy hiệu quả, với khoảng 85% bệnh viện vệ tinh ghi nhận xu hướng giảm chuyển tuyến.
Cùng đó, chi phí điều trị tại Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới, bao gồm cả các kỹ thuật nha khoa, thẩm mỹ, nội soi, ung bướu, thụ tinh ống nghiệm, ghép tạng… Tính hiệu quả về chi phí là một lợi thế cạnh tranh lớn trong thu hút người bệnh nước ngoài và người Việt Nam có thu nhập cao…
Việt Nam có nền y học cố truyền lâu đời, nhiều dược liệu quý…
Thế nhưng vẫn có khoảng 40.000 người Việt Nam thu nhập cao ra nước ngoài điều trị mỗi năm
Tuy nhiên, trong đề án, Bộ Y tế cũng cho hay, bên cạnh những thuận lợi, hệ thống các bệnh viện tại Việt Nam vẫn đang đối mặt với một số khó khăn, thách thức cần được quan tâm khắc phục.
Các chuyên gia của Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viện Nhi đồng 1 đã can thiệp thông tim bào thai thành công cho sản phụ người Singapore. Ảnh: Bệnh viện Từ Dũ cung cấp
Làm gì để triển khai, phát triển mô hình du lịch y tế tại Việt Nam hiệu quả?
Đề án phát triển dịch vụ khám, chữa bệnh chất lượng cao, thúc đẩy du lịch y tế, thu hút người nước ngoài và người Việt Nam có khả năng chi trả giai đoạn 2025-20230 đặt mục tiêu đến năm 2030, ít nhất 15 bệnh viện trên toàn quốc (bao gồm cả công lập và tư nhân) đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (JCI hoặc tương đương), trong đó có tối thiểu 5 bệnh viện công lập. 100% các cơ sở khám, chữa bệnh tham gia thí điểm có bộ phận tiếp thị và truyền thông quốc tế, cung cấp thông tin bằng ít nhất 3 ngôn ngữ (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung hoặc Hàn).
Đồng thời, xây dựng và đưa vào vận hành các gói dịch vụ du lịch y tế, bao gồm các gói dịch vụ khám, chữa bệnh kỹ thuật cao (ung bướu, tim mạch, chỉnh hình…); gói dịch vụ y học cổ truyền kết hợp nghỉ dưỡng; chăm sóc sức khỏe toàn diện (tầm soát, phục hồi chức năng…).
Đề án sẽ được triển khai toàn quốc, ưu tiên các tỉnh, thành phố có điều kiện thuận lợi phát triển du lịch và hệ thống y tế chất lượng cao. Trong đó, đến năm 2030, tối thiểu 5 địa phương trọng điểm (như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Khánh Hòa) triển khai mô hình du lịch y tế tích hợp giữa bệnh viện – khách sạn – khu nghỉ dưỡng – lữ hành.
Đề án được chia thành 2 giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 (năm 2025-2027: Tổ chức thí điểm tại một số bệnh viện và địa phương có điều kiện thuận lợi; phát triển 10-15 gói dịch vụ đầu tiên kết hợp y tế – du lịch – nghỉ dưỡng; triển khai truyền thông, xúc tiến, đào tạo nhân lực;
Mỗi ngày, BV Nội tiết Trung ương tiếp nhận gần 2.800 người đến khám ngoại trú và hơn 1.000 BN điều trị nội trú. Chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu có ý nghĩa quan trọng trong hiện đại hóa quy trình chăm sóc sức khỏe, quản lý hồ sơ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện trải nghiệm cho người bệnh.
Hội nghị khoa học Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2025 với thông điệp “Quản lý – Chăm sóc toàn diện bệnh Nội tiết – Đái tháo đường – Rối loạn chuyển hóa trong thời kỳ chuyển đổi số” (diễn ra ngày 12 và 13/9/2025) khẳng định quyết tâm của bệnh viện trong việc ứng dụng công nghệ, cập nhật y học hiện đại, mang đến dịch vụ y tế thông minh, nhân văn và gần gũi hơn với cộng đồng.
Người bệnh là trung tâm của hệ thống chăm sóc
Chia sẻ bên lề hội nghị, PGS.TS Phan Hướng Dương – Phó Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương cho biết: “Xu hướng y học hiện đại trên thế giới đều lấy người bệnh làm trung tâm. Việc điều trị ngày nay không chỉ dừng lại ở thăm khám, kê đơn, mà là một quá trình quản lý toàn diện, bao gồm tầm soát biến chứng, can thiệp sớm, chăm sóc thể chất kết hợp tinh thần.
Tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương, các khoa điều trị đang mở rộng dịch vụ chăm sóc, thẩm mỹ và tư vấn tinh thần nhằm giúp người bệnh nâng cao chất lượng sống. Người bệnh cũng được theo dõi và tư vấn từ xa, ngay tại nhà, thông qua hệ thống công nghệ thông tin của bệnh viện. Điều này khẳng định phương châm: bệnh viện không chỉ chữa bệnh, mà còn chăm sóc con người toàn diện”.
Người dân đến đăng ký khám và trải nghiệm hệ thống ki-ốt thông minh tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương.
Ở lĩnh vực nội tiết – chuyển hoá, đặc biệt là đái tháo đường, tốc độ gia tăng bệnh nhân ngày càng nhanh và có xu hướng trẻ hóa. Hiện Việt Nam có khoảng 7,3 triệu người mắc đái tháo đường nhưng chỉ 1/3 trong số đó được chẩn đoán và điều trị. Trong khi đó, các phương pháp điều trị, từ thuốc men đến kỹ thuật y khoa, đều phát triển với tốc độ vượt bậc trên toàn cầu.
“Chính vì vậy, các bác sĩ luôn nỗ lực cập nhật các phác đồ, thuốc mới, đồng thời báo cáo và tham mưu cho Bộ Y tế để triển khai rộng rãi trong hệ thống y tế. Đây là cách duy nhất để bảo đảm người bệnh tại Việt Nam được tiếp cận những tiến bộ y học ngang tầm quốc tế” – PGS.TS Phan Hướng Dương nhấn mạnh.
Theo khảo sát năm 2020, có tới 6,3% dân số mắc đái tháo đường nhưng chưa được chẩn đoán. Điều này đồng nghĩa, hàng triệu người chỉ phát hiện bệnh khi đã có biến chứng. Từ hội nghị khoa học lần này, các bác sĩ kêu gọi người dân nâng cao ý thức tầm soát định kỳ, ít nhất mỗi 6 – 12 tháng nên kiểm tra đường huyết.
Hiện nay, nhờ sự hỗ trợ của công cụ số hóa và nền tảng tư vấn trực tuyến, người bệnh dễ dàng tiếp cận thông tin, được hướng dẫn chăm sóc ngay tại nhà – từ chế độ ăn uống, vận động cho tới theo dõi biến chứng.
Chuyển đổi số trong y tế không chỉ là công nghệ, mà chính là cầu nối đưa dịch vụ y tế đến gần hơn với cộng đồng, giúp phát hiện sớm bệnh, điều trị kịp thời, hạn chế tối đa biến chứng nguy hiểm.PGS.TS Phan Hướng Dương khẳng định.
Hoàn thiện mô hình ‘bệnh viện thông minh’
Trong bối cảnh cả nước đẩy mạnh chuyển đổi số, y tế là một trong những lĩnh vực đi đầu. Với bệnh viện, chuyển đổi số giúp quản lý thông minh hơn, tiết kiệm nhân lực, thời gian và chi phí. Người bệnh được hưởng lợi rõ rệt như: đăng ký khám trực tuyến, lựa chọn bác sĩ, sử dụng mã QR để rút ngắn thủ tục hành chính, tiếp cận dịch vụ nhanh chóng.
Đặc biệt, việc triển khai bệnh án điện tử đã mở ra một kỷ nguyên mới: dữ liệu y khoa được kết nối, lưu trữ và khai thác đồng bộ, giúp bác sĩ có thể theo dõi toàn bộ quá trình điều trị, từ đó đưa ra quyết định chính xác và kịp thời hơn. “Đây là ước mơ nhiều năm của chúng tôi – xây dựng một hệ thống y tế thông minh, minh bạch, nơi bác sĩ và người bệnh đều được hỗ trợ tối đa” – PGS.TS Phan Hướng Dương chia sẻ.
Ngày 12/9/2025, Bệnh viện Nội tiết Trung ương chính thức bấm nút triển khai áp dụng hồ sơ bệnh án điện tử. Bệnh án điện tử là một trong nhiều mục tiêu chiến lược chuyển đổi số y tế quốc gia của Chính phủ và Bộ Y tế. Việc chuyển đổi sang bệnh án điện tử giúp tất cả thông tin về tình trạng sức khỏe, lịch sử bệnh lý và quá trình điều trị của bệnh nhân được lưu trữ và quản lý trực tuyến. Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho bác sĩ và nhân viên y tế truy cập thông tin nhanh chóng, giảm thiểu sai sót trong quá trình chẩn đoán và điều trị, giảm áp lực khi khám chữa bệnh và vận hành quản lý.
Bệnh án điện tử là bước tiến đột phá trong việc hiện đại hóa quy trình chăm sóc sức khỏe, quản lý hồ sơ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện trải nghiệm của người bệnh.
Trước đó từ đầu năm 2025, bệnh viện đã triển khai phần mềm HIS, LIS, PACS, áp dụng bệnh án điện tử vào hoạt động khám chữa bệnh, điều trị nội trú, ngoại trú tại bệnh viện, các hệ thống phần mềm được kết nối tích hợp liên thông.
ThS. Đặng Ngọc Tú – Trưởng phòng Công nghệ thông tin của bệnh viện cho hay, bệnh viện đã trang bị khoảng 20 ki-ốt thông tin, ki-ốt tiếp đón người bệnh nhanh chóng, thuận tiện. Ngoài ra còn có ứng dụng đặt lịch khám online “BV Nội tiết TW”, thanh toán không dùng tiền mặt… làm giảm đáng kể thời gian chờ đợi khi khám chữa bệnh.
Bệnh viện cũng tiến hành chuyển đổi phần mềm khám, chữa bệnh triển khai lắp đặt hạ tầng mạng thiết bị kỹ thuật, hoàn thiện các hệ thống ứng dụng nâng cao EMR, PACS, quản lý điều dưỡng, quản lý đào tạo, quản lý chất lượng bệnh viện, quản lý văn phòng số, ký xác thực người bệnh qua VneID… Tất cả những bước đi này đang từng bước hoàn thiện mô hình “bệnh viện thông minh” trong tương lai gần.
TS.BS. Phan Hoàng Hiệp – Giám đốc Bệnh viện Nội tiết Trung ương nhấn mạnh, chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ đặt ra nhiều cơ hội và thách thức lớn với ngành y tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực Nội tiết – Đái tháo đường – Rối loạn chuyển hóa nói riêng. Vì vậy, rất nhiều vấn đề thời sự được các chuyên gia tập trung thảo luận tại hội nghị như: ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ số trong quản lý, chẩn đoán và chăm sóc người bệnh; cập nhật tiến bộ trong điều trị đái tháo đường, rối loạn lipid máu, bệnh béo phì, ung thư tuyến giáp; tiếp cận chăm sóc toàn diện cho người bệnh trong bối cảnh đa chuyên khoa…
“Sự kiện lần này quy tụ hơn 1.000 đại biểu gồm các giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học, bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng trong và ngoài nước. Đây là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng trong cập nhật tri thức, ứng dụng công nghệ số, nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị và chăm sóc toàn diện người bệnh, góp phần xây dựng hệ thống y tế hiện đại, hiệu quả và bền vững” – TS.BS. Phan Hoàng Hiệp nói.